Quá
trình
hoàn
thiện
và
định
hướng
phát
triển
của
Bộ
luật
hình
sự:
Bộ
luật
Hình
sự
là
đạo
luật
quan
trọng
nhất
của
nước
ta
quy
định
về
tội
phạm
và
hình
phạt
nhằm
điều
chỉnh
các
mối
quan
hệ
trên
mọi
mặt
của
xã
hội,
có
nhiệm
vụ
bảo
vệ
pháp
chế
xã
hội
chủ
nghĩa,
trật
tự
xã
hội,
bảo
vệ
các
quyền
lợi
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
công
dân,
chống
mọi
hành
vi
phạm
tội,
đồng
thời
giáo
dục
mọi
người
ý
thức
tuân
theo
pháp
luật,
đấu
tranh
chống
và
phòng
ngừa
tội
phạm.
Năm
1985
Bộ
luật
hình
sự
đầu
tiên
của
nước
ta
ra
đời
trên
cơ
sở
của
nền
kinh
tế
bao
cấp
và
thực
tiễn
của
tình
hình
tội
phạm
thời
kỳ
đó.
BLHS
năm
1985
với
ý
nghĩa
là
nguồn
duy
nhất
trong
đó
quy
định
tội
phạm
và
hình
phạt.
Để
đáp
ứng
và
phục
vụ
công
cuộc
đổi
mới
của
đất
nước,
luật
hình
sự
buộc
phải
có
những
thay
đổi
mang
tính
phát
triển.
Sự
phát
triển
này
được
thể
hiện
trước
hết
và
chủ
yếu
trong
những
sửa
đổi,
bổ
sung
của
BLHS.
Chúng
ta
có
thể
chia
quá
trình
phát
triển
này
thành
hai
giai
đoạn:
Giai
đoạn
từ
1986
đến
trước
khi
có
BLHS
năm
1999
và
giai
đoạn
từ
khi
có
BLHS
năm
1999
đến
nay.
Trong
giai
đoạn
đầu,
sự
thay
đổi
của
BLHS
chỉ
có
tính
cục
bộ
nhằm
mục
đích
khắc
phục
tạm
thời
những
hạn
chế,
những
bất
hợp
lí
của
BLHS
năm
1985.
Ở
giai
đoạn
thứ
hai,
sự
ra
đời
BLHS
năm
1999
đánh
dấu
sự
thay
đổi
tương
đối
toàn
diện
của
luật
hình
sự
Việt
Nam.
Giai
đoạn
từ
1986
đến
trước
khi
có
BLHS
năm
1999:
Trong
khoảng
15
năm
tồn
tại,
BLHS
năm
1985
đã
được
sửa
đổi,
bổ
sung
4
lần
vào
các
năm
1989,
1991,
1992
và
1997.
Qua
bốn
lần
sửa
đổi,
bổ
sung
có
trên
100
lượt
điều
luật
được
sửa
đổi
hoặc
bổ
sung.
Với
những
sửa
đổi,
bổ
sung
này
luật
hình
sự
đã
có
sự
phát
triển
đáp
ứng
được
phần
nào
đòi
hỏi
của
cuộc
đấu
tranh
phòng
chống
tội
phạm
trong
điều
kiện
đổi
mới.
Bộ
luật
hình
sự
năm
1999
được
xây
dựng
trên
cơ
sở
kế
thừa
những
nội
dung
hợp
lý,
tích
cực
của
BLHS
năm
1985.
So
với
BLHS
năm
1985,
BLHS
năm
1999
có
những
thay
đổi
cơ
bản
mang
tính
tương
đối
toàn
diện
thể
hiện
sự
phát
triển
mới
của
Luật
hình
sự
Việt
Nam.
Tuy
nhiên
trước
những
thay
đổi
lớn
lao
trên
các
mặt
của
đời
sống
xã
hội,
sự
phát
triển
của
nền
kinh
tế
trong
thời
kỳ
hội
nhập,
nhận
thức
pháp
luật
của
của
người
dân
ngày
càng
nâng
cao,
những
thủ
đoạn
phạm
tội
ngày
càng
tinh
vi,
nhiều
loại
tội
phạm
mới
xuất
hiện…
những
vấn
đề
đó
đòi
hỏi
cần
phải
có
sự
điều
chỉnh
sửa
đổi,
bổ
sung
của
hệ
thống
pháp
luật
trong
đó
có
pháp
luật
hình
sự
nhằm
đáp
ứng
yêu
cầu
thực
tiễn
đặt
ra
trong
công
tác
đấu
tranh
phòng,
chống
tội
phạm.
Ngày
22
tháng
7
năm
2014
Thủ
tướng
Chính
phủ,
Bộ
Tư
pháp
đã
phối
hợp
với
các
Bộ,
ngành
liên
quan
xây
dựng
dự
án
Bộ
luật
hình
sự
(sửa
đổi).
Đánh
giá
chung
đối
với
dự
thảo:
Dự
thảo
BLHS
(sửa
đổi)
có
nhiều
điểm
mới,
tiến
bộ
thể
hiện
quan
điểm,
đường
lối
chính
sách
của
Đảng.
Dự
thảo
đã
kế
thừa
và
phát
triển
trên
cơ
sở
của
Bộ
luật
Hình
sự
năm
1999,
được
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2009.
Bảo
đảm
sự
nghiêm
minh
của
pháp
luật,
thể
hiện
được
tính
nhân
đạo
sâu
sắc
mang
bản
chất
giai
cấp,
Nhà
nước
pháp
quyền
xã
hội
chủ
nghĩa,
phù
hợp
với
luật
pháp
quốc
tế.
Dự
thảo
phù
hợp
với
các
quy
định
của
Hiến
pháp
năm
2013
đề
cao
quyền
con
người,
quyền
công
dân,
đáp
ứng
được
yêu
cầu
trong
công
tác
đấu
tranh
phòng
chống
tội
phạm,
là
cơ
sở
để
khắc
phục
những
tồn
tại,
bất
cấp
trong
thực
tiễn
thi
hành
Bộ
luật
Hình
sự.
Dự
thảo
phù
hợp
với
các
Điều
ước
quốc
tế
mà
Việt
Nam
là
thành
viên,
những
vấn
đề
tội
phạm,
hình
phạt
liên
quan
đến
đối
tượng
phạm
tội
là
người
mang
quốc
tịch
nước
ngoài
được
quy
định
khá
đầy
đủ,
chi
tiết
trong
Dự
thảo
đáp
ứng
được
quá
trình
hội
nhập
và
phát
triển
với
các
nước
trong
khu
vực
và
thế
giới.
Dự
thảo
đã
dự
kiến
được
những
vấn
đề
mới,
những
nguy
cơ
tiềm
ẩn
của
các
loại
tội
phạm
có
thể
xảy
tra
trong
tương
lai,
đảm
bảo
sự
ổn
định
lâu
dài
trong
quá
trình
thi
hành.
Đối
với
những
nội
dung
của
Dự
thảo
về
quy
định
chung,
các
tội
phạm
cụ
thể,
về
bố
cục,
kết
cấu,
vị
trí
của
các
chương,
điều,
khoản,
ngôn
ngữ
diễn
đạt
về
kỹ
thuật
lập
pháp
hoàn
toàn
phù
hợp
với
Luật
ban
hành
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật,
thể
hiện
được
tính
kế
thừa
và
phát
triển.
Một
số
vấn
đề
góp
ý
về
dự
thảo:
Thứ
nhất:
Không
nên
quy
định
trách
nhiệm
hình
sự
của
pháp
nhân
tại
thời
điểm
này
vì:
Chúng
ta
đã
có
chế
tài
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
và
có
quy
định
trong
pháp
luật,
mặc
khác
việc
quy
định
TNHS
của
pháp
nhân
trong
Bộ
luật
hình
sự
là
không
phù
hợp
vì
tập
thể
phạm
tội
đã
có
quy
định
về
đồng
phạm
trong
Bộ
luật
hình
sự
hiện
hành.
Thứ
hai:
Việc
quy
định
phạm
vi
chịu
trách
nhiệm
hình
sự
của
người
chưa
thành
niên
và
các
biện
pháp
thay
thế
xử
lý
hình
sự
áp
dụng
đối
với
người
chưa
thành
niên
phạm
tội;
việc
bỏ
hình
phạt
tử
hình
ở
một
số
tội;
quy
định
không
áp
dụng
hình
phạt
tử
hình,
không
thi
hành
án
tử
hình
trong
một
số
trường
hợp;
quy
định
không
giảm
án
đối
với
người
bị
kết
án
tử
hình
nhưng
được
ân
giảm
xuống
tù
chung
thân;
chuyển
đổi
hình
phạt
tiền,
hình
phạt
cải
tạo
không
giam
giữ
thành
hình
phạt
tù
có
thời
hạn...
như
trong
Dự
thảo
là
hợp
lý
thể
hiện
quan
điểm,
đường
lối
của
Đảng,
Nhà
nước
về
nguyên
tắc
xử
lý
đối
với
người
chưa
thành
niên
phạm
tội,
đảm
bảo
tính
nhân
đạo
đề
cao
quyền
con
người,
quyền
được
sống
phù
hợp
với
pháp
luật
quốc
tế.
Thứ
ba:
Cụ
thể
hóa
hành
vi
phạm
tội
có
tính
chất
cố
ý
làm
trái
các
quy
định
của
Nhà
nước
về
quản
lý
kinh
tế
và
quy
định
45
tội
danh
xâm
phạm
trật
tự
quản
lý
thuộc
3
nhóm
lĩnh
vực
gồm:
sản
xuất,
kinh
doanh,
thương
mại;
Thuế,
tài
chính,
ngân
hang,
chứng
khoán,
bảo
hiểm;
Lĩnh
vực
kinh
tế
khác
lý
do
vì:
Việc
cụ
thể
hóa
các
hành
vi
phạm
tội
một
cách
cụ
thể
đã
thể
hiện
được
tính
khách
quan,
minh
bạch
và
giúp
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
dễ
dàng
áp
dụng
BLHS
hơn,
tránh
được
sự
tùy
tiện
trong
quá
trình
xử
lý
tội
phạm
nhằm
bảo
vệ
quyền
con
người,
quyền
công
dân
theo
tinh
thần
của
Hiến
pháp
2013.
Hơn
nữa,
Việt
Nam
đang
trong
quá
trình
chuyển
đổi
cơ
chế
quản
lý
từ
cơ
chế
tập
trung
sang
cơ
chế
thị
trường
và
hội
nhập
sâu
vào
nền
kinh
thế
thế
giới
cho
nên
vấn
đề
quản
lý
kinh
tế
trở
nên
phức
tạp
hơn,
do
đó,
để
xử
lý
tội
phạm
với
dấu
hiệu
cấu
thành
là
“
cố
ý
làm
trái
quy
định
của
Nhà
nước
về
quản
lý
kinh
tế
gây
hậu
quả
nghiêm
trọng”
là
rất
khó
khăn.
Thứ
tư:
Việc
bãi
bỏ
và
bổ
sung
một
số
loại
tội
như
trong
Dự
thảo
là
phù
hợp
với
quá
trình
tổng
kết
thực
tiễn
thi
hành
Bộ
luật
Hình
sự
hiện
hành,
nhằm
dự
đoán
những
hành
vi
phạm
tội
đã
xảy
ra
và
đang
có
nguy
cơ
tiềm
ẩn,
đồng
thời
thể
hiện
tính
ổn
định,
bền
vững
của
Dự
thảo
Bộ
luật
Hình
sự
(sửa
đổi)
sẽ
được
thi
hành
khi
thông
qua.
Đề
nghị
quy
định
rõ
tại
Bộ
luật
hình
sự
(Sửa
đổi)
một
số
điều
luật
mà
thực
tiễn
đang
gặp
khó
khăn
vướng
mắc:
-
Đối
với
tội
lạm
dụng
tín
nhiệm
chiếm
đoạt
tài
sản
theo
quy
định
tại
Điều
140
BLHS.
Theo
Điểm
a
khoản
1
Điều
140
BLHS
quy
định:
“Vay,
mượn,
thuê
tài
sản
của
người
khác
hoặc
nhận
được
tài
sản
của
người
khác
bằng
các
hình
thức
hợp
đồng
rồi
dùng
thủ
đoạn
gian
dối
hoặc
bỏ
trốn
để
chiếm
đoạt
tài
sản
đó”.
Yếu
tố
“Bỏ
trốn
để
chiếm
đoạt
tài
sản”
vẫn
chưa
được
giải
thích,
hướng
dẫn
cụ
thể.
Trong
thực
tiễn,
một
người
sau
khi
vay,
mượn,
thuê
tài
sản
bằng
các
hình
thức
hợp
đồng
rồi
bỏ
trốn,
nhưng
để
chứng
minh
họ
có
bỏ
trốn,
nhằm
chiếm
đoạt
tài
sản
hay
không
là
vấn
đề
còn
nhiều
vướng
mắc
trong
thực
tiễn
áp
dụng,
nên
đã
phát
sinh
nhiều
quan
điểm
khác
nhau.
Trong
khi
đó,
thực
tế
đã
chứng
minh,
không
phải
tất
cả
mọi
trường
hợp
bỏ
trốn
đều
có
ý
thức
chiếm
đoạt
tài
sản.
Đây
là
vấn
đề
cần
phải
được
làm
rõ
để
đảm
bảo
việc
áp
dụng
pháp
luật
được
chính
xác
không
bỏ
lọt
tội
phạm
và
xảy
ra
oan
sai.
Theo
Điểm
b
khoản
1
Điều
140
BLHS
quy
định:
“Vay,
mượn,
thuê
tài
sản
của
người
khác
hoặc
nhận
được
tài
sản
của
người
khác
bằng
các
hình
thức
hợp
đồng
và
đã
sử
dụng
tài
sản
đó
vào
mục
đích
bất
hợp
pháp
dẫn
đến
không
có
khả
năng
trả
lại
tài
sản”.
Như
vậy,
chỉ
các
trường
hợp
người
nhận
được
tài
sản
đã
sử
dụng
tài
sản
đó
vào
“mục
đích
bất
hợp
pháp”,
như:
đánh
bạc,
mua
bán
ma
túy…
dẫn
đến
không
có
khả
năng
trả
lại
tài
sản,
mới
bị
coi
là
phạm
tội
“Lạm
dụng
tín
nhiệm
chiếm
đoạt
tài
sản”.
Còn
đối
với
các
trường
hợp
vay,
mượn
tiền
với
số
lượng
lớn,
sau
đó
sử
dụng
vào
việc
ăn
chơi,
tiêu
xài
hoang
phí
dẫn
đến
không
khả
năng
trả
nợ,
lại
không
thể
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự
đối
với
họ,
vì
việc
dùng
tiền
vay,
mượn
để
ăn
chơi,
tiêu
xài…
tuy
có
trái
với
đạo
đức
xã
hội
nhưng
lại
không
được
xem
là
việc
làm
“bất
hợp
pháp”.
-
Mâu
thuẫn
về
quy
định
tuổi
tại
Điều
12
và
khoản
2,
khoản
3
Điều
115
Bộ
luật
hình
sự.
Điều
12
quy
định
về
TNHS
đối
với
người
từ
đủ
14
tuổi
đến
dưới
16
tuổi
phải
chịu
TNHS
về
tội
rất
nghiêm
trọng
do
cố
ý
hoặc
tội
phạm
đặc
biệt
nghiêm
trọng,
nhưng
theo
quy
định
tại
khoản
2
và
khoản
3
Điều
115
thì
chỉ
xử
lý
đối
với
người
phạm
tội
đã
thành
niên
(tức
là
từ
đủ
18
tuổi
trở
lên).
Phạm
Việt
Hùng