Trang nhất » Tin Tức » Xây dựng ngành » Chuyên đề - Nghiệp vụ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG - Đã xem: 15912

   Sự phát triển đổi mới và các định huớng hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam


Thứ hai - 31/08/2015 16:15

          Quá trình hoàn thiện và định hướng phát triển của Bộ luật hình sự:

          Bộ luật Hình sự là đạo luật quan trọng nhất của nước ta quy định về tội phạm và hình phạt nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên mọi mặt của xã hội, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

          Năm 1985 Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm 1985 với ý nghĩa là nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt. Để đáp ứng và phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước, luật hình sự buộc phải có những thay đổi mang tính phát triển. Sự phát triển này được thể hiện trước hết và chủ yếu trong những sửa đổi, bổ sung của BLHS. Chúng ta có thể chia quá trình phát triển này thành hai giai đoạn: Giai đoạn từ 1986 đến trước khi có BLHS năm 1999 và giai đoạn từ khi có BLHS năm 1999 đến nay. Trong giai đoạn đầu, sự thay đổi của BLHS chỉ có tính cục bộ nhằm mục đích khắc phục tạm thời những hạn chế, những bất hợp lí của BLHS năm 1985. Ở giai đoạn thứ hai, sự ra đời BLHS năm 1999 đánh dấu sự thay đổi tương đối toàn diện của luật hình sự Việt Nam.

          Giai đoạn từ 1986 đến trước khi có BLHS năm 1999: Trong khoảng 15 năm tồn tại, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Qua bốn lần sửa đổi, bổ sung có trên 100 lượt điều luật được sửa đổi hoặc bổ sung. Với những sửa đổi, bổ sung này luật hình sự đã có sự phát triển đáp ứng được phần nào đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong điều kiện đổi mới.

          Bộ luật hình sự năm 1999 được xây dựng trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý, tích cực của BLHS năm 1985. So với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có những thay đổi cơ bản mang tính tương đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt Nam.

          Tuy nhiên trước những thay đổi lớn lao trên các mặt của đời sống xã hội, sự phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập, nhận thức pháp luật của của người dân ngày càng nâng cao, những thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, nhiều loại tội phạm  mới xuất hiện… những vấn đề đó đòi hỏi cần phải có sự điều chỉnh sửa đổi, bổ sung của hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngày 22 tháng 7 năm 2014 Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi).

          Đánh giá chung đối với dự thảo:

         Dự thảo BLHS (sửa đổi) có nhiều điểm mới, tiến bộ thể hiện quan điểm, đường lối chính sách của Đảng. Dự thảo đã kế thừa và phát triển trên cơ sở của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, thể hiện được tính nhân đạo sâu sắc mang bản chất giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với luật pháp quốc tế.

          Dự thảo phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 2013 đề cao quyền con người, quyền công dân, đáp ứng được yêu cầu trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, là cơ sở để khắc phục những tồn tại, bất cấp trong thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự.

          Dự thảo phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, những vấn đề tội phạm, hình phạt liên quan đến đối tượng phạm tội là người mang quốc tịch nước ngoài được quy định khá đầy đủ, chi tiết trong Dự thảo đáp ứng được quá trình hội nhập và phát triển với các nước trong khu vực và thế giới.

          Dự thảo đã dự kiến được những vấn đề mới, những nguy cơ tiềm ẩn của các loại tội phạm có thể xảy tra trong tương lai, đảm bảo sự ổn định lâu dài trong quá trình thi hành.

          Đối với những nội dung của Dự thảo về quy định chung, các tội phạm cụ thể, về bố cục, kết cấu, vị trí của các chương, điều, khoản, ngôn ngữ diễn đạt về kỹ thuật lập pháp hoàn toàn phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện được tính kế thừa và phát triển.

          Một số vấn đề góp ý về dự thảo:

          Thứ nhất: Không nên quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân tại thời điểm này vì: Chúng ta đã có chế tài xử phạt vi phạm hành chính và có quy định trong pháp luật, mặc khác việc quy định TNHS của pháp nhân trong Bộ luật hình sự là không phù hợp vì tập thể phạm tội đã có quy định về đồng phạm trong Bộ luật hình sự hiện hành.

          Thứ hai: Việc quy định phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên và các biện pháp thay thế xử lý hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội; việc bỏ hình phạt tử hình ở một số tội; quy định không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình trong một số trường hợp; quy định không giảm án đối với người bị kết án tử hình nhưng được ân giảm xuống tù chung thân; chuyển đổi hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù có thời hạn... như trong Dự thảo là hợp lý thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, đảm bảo tính nhân đạo đề cao quyền con người, quyền được sống phù hợp với pháp luật quốc tế.

          Thứ ba: Cụ thể hóa hành vi phạm tội có tính chất cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế và quy định 45 tội danh xâm phạm trật tự quản lý thuộc 3 nhóm lĩnh vực gồm: sản xuất, kinh doanh, thương mại; Thuế, tài chính, ngân hang, chứng khoán, bảo hiểm; Lĩnh vực kinh tế khác lý do vì: Việc cụ thể hóa các hành vi phạm tội một cách cụ thể đã thể hiện được tính khách quan, minh bạch và giúp các cơ quan có thẩm quyền dễ dàng áp dụng BLHS hơn, tránh được sự tùy tiện trong quá trình xử lý tội phạm nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo tinh thần của Hiến pháp 2013. Hơn nữa, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường và hội nhập sâu vào nền kinh thế thế giới cho nên vấn đề quản lý kinh tế trở nên phức tạp hơn, do đó, để xử lý tội phạm với dấu hiệu cấu thành là “ cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” là rất khó khăn.

          Thứ tư: Việc bãi bỏ và bổ sung một số loại tội như trong Dự thảo là phù hợp với quá trình tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự hiện hành, nhằm dự đoán những hành vi phạm tội đã xảy ra và đang có nguy cơ tiềm ẩn, đồng thời thể hiện tính ổn định, bền vững của Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) sẽ được thi hành khi thông qua.

          Đề nghị quy định rõ tại Bộ luật hình sự (Sửa đổi) một số điều luật mà thực tiễn đang gặp khó khăn vướng mắc:

          - Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

          Theo Điểm a khoản 1 Điều 140 BLHS quy định: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó”. Yếu tố “Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” vẫn chưa được giải thích, hướng dẫn cụ thể. Trong thực tiễn, một người sau khi vay, mượn, thuê tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn, nhưng để chứng minh họ có bỏ trốn, nhằm chiếm đoạt tài sản hay không là vấn đề còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, nên đã phát sinh nhiều quan điểm khác nhau. Trong khi đó, thực tế đã chứng minh, không phải tất cả mọi trường hợp bỏ trốn đều có ý thức chiếm đoạt tài sản. Đây là vấn đề cần phải được làm rõ để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được chính xác không bỏ lọt tội phạm và xảy ra oan sai.

          Theo Điểm b khoản 1 Điều 140 BLHS quy định: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. Như vậy, chỉ các trường hợp người nhận được tài sản đã sử dụng tài sản đó vào “mục đích bất hợp pháp”, như: đánh bạc, mua bán ma túy… dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản, mới bị coi là phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Còn đối với các trường hợp vay, mượn tiền với số lượng lớn, sau đó sử dụng vào việc ăn chơi, tiêu xài hoang phí dẫn đến không khả năng trả nợ, lại không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc dùng tiền vay, mượn để ăn chơi, tiêu xài… tuy có trái với đạo đức xã hội nhưng lại không được xem là việc làm “bất hợp pháp”.

          - Mâu thuẫn về quy định tuổi tại Điều 12 và khoản 2, khoản 3 Điều 115 Bộ luật hình sự. Điều 12 quy định về TNHS đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nhưng theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 115 thì chỉ xử lý đối với người phạm tội đã thành niên (tức là từ đủ 18 tuổi trở lên).

 
        Phạm Việt Hùng
Tổng số điểm của bài viết là: 20 trong 4 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Scroll to top