Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu - Trao đổi nghiệp vụ » Chuyên đề nghiệp vụ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG - Đã xem: 8358

   Việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015


Thứ ba - 11/05/2021 05:41
      Nghiên cứu chứng cứ, đánh giá chứng cứ theo quy định tại Điều 93 và Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện đầy đủ, chính xác, sự liên quan giữa các chứng cứ và khảng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng cứ, có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, tất cả các hoạt động tố tụng dân sự đều phải đi đến kết luận về giá trị chứng minh của chứng cứ, trên cơ sở đó mới có thể kết luận về vụ án, vụ việc dân sự.
      Trong Tố tụng dân sự, khi có đương sự nộp đơn khởi kiện yêu cầu đến Tòa án và được Tòa án thụ lý giải quyết làm phát sinh vụ việc dân sự (gồm vụ án dân sự và vụ việc dân sự). Quá trình giải quyết vụ việc dân sự gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người yêu cầu phải thực hiện chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đây cũng là nghĩa vụ của đương sự. Để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp thì đương sự bắt buộc phải đưa ra chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án (trừ các trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 91và Điều 92 BLTTDS), đồng thời với nhiệm vụ quyền hạn của mình thì Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, người tiến hành tố tụng dân sự lại có trách nhiệm thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ mà đương sự xuất trình cũng như do chính Tòa án thu thập để có cơ sở bảo vệ chính xác, kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
      Khi nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, phải xác định chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp; đồng thời cần phải phân biệt rõ tài liệu nào là nguồn chứng cứ và tài liệu nào không phải là nguồn chứng cứ khi nghiên cứu vụ án dân sự.
      Thực tiễn khi nghiên cứu, đánh giá chứng cứ phải hiểu được đặc điểm và đặc tính của chứng cứ, đó là:
      * Chứng cứ có 03 đặc điểm sau: Chứng cứ là những gì có thật; Được đương sự, cá nhân và cơ quan, tổ chức khác giao nộp, Tòa án thu thập theo trình tự thủ tục do BLTTDS quy định; Được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không.
      * Chứng cứ có 03 đặc tính sau: Tính khách quan, bởi chứng cứ là cơ sở để nhận thức vụ việc dân sự;  Tính liên quan, bởi chứng cứ được Tòa sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự;  Tính hợp pháp, bởi việc giải quyết vụ việc dân sự luôn phải đảm bảo sự tuân thủ của pháp luật.
      Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các chủ thể phải chứng minh phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về chứng cứ. Do đó, khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự cần xem xét, đánh giá khách quan đối với những gì không được rút ra từ các nguồn do pháp luật quy định, không được thu thập, nghiên cứu đánh giá và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật thì không được coi là chứng cứ, không được sử dụng giải quyết vụ việc dân sự.
      Theo quy định tại Điều 93 BLTTDS, thì một trong những điều kiện của chứng cứ phải là được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp, xuất trình trong quá trình tố tụng cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự thủ tục do BLTTDS quy định; do đó, việc giao nộp chứng cứ và thu thập chứng cứ phải thực hiện theo đúng quy định của các điều luật tương ứng của BLTTDS năm 2015 và  Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 của Hội đồng Thâm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự...;
      Theo quy định tại Điều 94 BLTTDS năm 2015, để được coi là chứng cứ thì việc xác định chứng cứ phải được thu thập theo các nguồn sau đây: tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực và các nguồn khác  mà pháp luật quy định.
      Theo quy định tại Điều 95 BLTTDS năm 2015, thì chứng cứ được xác định như sau:
      - Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ, nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
       Thí dụ: Đương sự giao nộp cho Tòa án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp thì được coi là chứng cứ. Trong trường hợp đương sự chưa dịch chứng cứ đó sang tiếng Việt hoặc đã dịch sang tiếng Việt nhưng chưa được công chứng, chứng thực hợp pháp thì không coi là chứng cứ.
      - Tài liệu nghe được, nhìn được, được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến thu âm, thu hình đó. Như vậy, nếu đương sự không xuất trình các văn bản nêu trên, thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương tự giao nộp không được coi là chứng cứ.
       - Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện báo, Fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
      - Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
      - Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, bằng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh hoặc khai bằng lời khai tại phiên tòa.
      - Kết luận giám định được coi là chứng cứ, nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
      - Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ, nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
      - Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục pháp luật quy định.
      - Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ, nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục pháp luật quy định.
      - Các nguồn khác mà pháp luật quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.  
      Trên đây, là một số kinh nghiệm  trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, rất mong sự quan tâm đóng góp ý kiến của bạn đọc.

 
               Cấn Văn Tuấn - VKSND huyện Hàm Yên
 
 

Tổng số điểm của bài viết là: 13 trong 3 đánh giá
Click để đánh giá bài viết





 

Scroll to top