Thông
qua
công
tác
kiểm
sát
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự
nhận
thấy
việc
kiểm
sát
về
nghĩa
vụ
nộp
tiền
tạm
ứng
án
phí,
tiền
tạm
ứng
lệ
phí;
nghĩa
vụ
chịu
án
phí
theo
quy
định
tại
Điều
146
và
Điều
147
BLTTDS,
đặc
biệt
là
các
trường
hợp
được
miễn,
giảm
nộp
tiền
tạm
ứng
án
phí,
án
phí…
và
Nghị
quyết
326/2016/UBTVQH14
quy
định
về
mức
thu,
miễn,
giảm,
thu,
nộp,
quản
lý
và
sử
dụng
án
phí
và
lệ
phí
Toà
án
còn
một
số
vướng
mắc,
bất
cập
trong
quá
trình
thực
hiện,
cụ
thể:
Điều
12
Nghị
quyết
326/2016/UBTVQH14
quy
định:
1.
Những
trường
hợp
sau
đây
được
miễn
nộp
tiền
tạm
ứng
án
phí,
án
phí:
…
đ)
Trẻ
em;
cá
nhân
thuộc
hộ
nghèo,
cận
nghèo;
người
cao
tuổi;
người
khuyết
tật;
người
có
công
với
cách
mạng;
đồng
bào
dân
tộc
thiểu
số
ở
các
xã
có
điều
kiện
kinh
tế
-
xã
hội
đặc
biệt
khó
khăn;
thân
nhân
liệt
sĩ
được
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
cấp
Giấy
chứng
nhận
gia
đình
liệt
sĩ.
2.
…
Điều
14
Nghị
quyết
326/2016/UBTVQH14
quy
định:
Hồ
sơ
đề
nghị
miễn,
giảm
tạm
ứng
án
phí,
tạm
ứng
lệ
phí
Toà
án,
án
phí,
lệ
phí
Toà
án
thuộc
trường
hợp
quy
định
tại
Điều
12,
Điều
13
của
Nghị
quyết
này
phải
có
đơn
đề
nghị
nộp
cho
Toà
án
có
thẩm
quyền
kèm
theo
các
tài
liệu,
chứng
cứ
chứng
minh
thuộc
trường
hợp
được
miễn
giảm.
Như
vậy
theo
quy
định
nêu
trên
thì
những
trường
hợp
được
miễn,
giảm
tiền
tạm
ứng
án
phí,
án
phí
bắt
buộc
phải
có
đơn
đề
nghị
nộp
cho
Toà
án,
tuy
nhiên
trên
thực
tiễn
thì
những
trường
hợp
quy
định
tại
điểm
đ
khoản
1
Điều
12
là
trẻ
em;
cá
nhân
thuộc
hộ
nghèo,
cận
nghèo;
người
cao
tuổi;
người
khuyết
tật;
người
có
công
với
cách
mạng;
đồng
bào
dân
tộc
thiểu
số
ở
các
xã
có
điều
kiện
kinh
tế
-
xã
hội
đặc
biệt
khó
khăn…
họ
không
hiểu
biết
hoặc
nhận
thức
pháp
luật
còn
hạn
chế,
không
được
hướng
dẫn,
giải
thích
nên
đương
sự
thuộc
trường
hợp
được
miễn,
giảm
nhưng
không
có
đơn
dẫn
đến
không
được
xem
xét
miễn,
giảm
tạm
ứng
án
phí,
tạm
ứng
lệ
phí
Toà
án,
án
phí,
lệ
phí
Toà
án
theo
quy
định.
Khi
thụ
lý,
giải
quyết
vụ
án,
Thẩm
phán
được
phân
công
không
giải
thích,
hướng
dẫn
cho
đương
sự,
nhưng
không
có
quy
định
nào
ràng
buộc
đối
với
trách
nhiệm
của
thẩm
phán
dẫn
đến
có
vụ
án
đương
sự
chỉ
cần
nộp
tài
liệu
chứng
minh
là
hộ
nghèo,
người
cao
tuổi,
người
có
công
với
cách
mạng
…
thì
Thẩm
phán
được
phân
công
giải
quyết
vụ
án
đã
xét
miễn,
giảm
tạm
ứng
án
phí,
án
phí
cho
họ,
nhưng
có
Thẩm
phán
thì
xác
định
do
đương
sự
không
có
đơn
nên
không
xem
xét
miễn,
giảm.
Tại
công
văn
số
89/TANDTC-PC
ngày
30/6/2020
của
Toà
án
nhân
dân
tối
cao,
thông
báo
kết
quả
giải
đáp
trực
tuyến
một
số
vướng
mắc
trong
xét
xử
đã
nêu
“…nếu
đương
sự
không
có
đơn
đề
nghị
thì
việc
Toà
án
quyết
định
đương
sự
phải
chịu
án
phí
là
không
vi
phạm”.
Do
đó
công
tác
kiểm
sát
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự
còn
gặp
khó
khăn
nhất
định
như:
-
Trường
hợp:
Đương
sự
nộp
sổ
hộ
nghèo,
chứng
minh
nhân
dân
và
sổ
hộ
khẩu
để
xác
định
đương
sự
là
người
cao
tuổi;
giấy
chứng
nhận
gia
đình
liệt
sĩ
…
Đây
chính
là
tài
liệu
thể
hiện
đương
sự
thuộc
trường
hợp
được
miễn,
giảm
tiền
tạm
ứng
án
phí,
án
phí
theo
quy
định
tại
điểm
đ
khoản
1
Điều
12
Nghị
quyết
326/2016/UBTVQH14,
do
vậy
căn
cứ
vào
các
tài
liệu
trên
Thẩm
phán
xét
miễn,
giảm
tạm
ứng
án
phí,
án
phí
cho
họ
là
có
căn
cứ.
-
Trường
hợp:
Những
tài
liệu
mà
đương
sự
đã
nộp
nêu
trên
nhưng
đương
sự
không
có
đơn
(do
không
hiểu
biết,
không
được
giải
thích)
Thẩm
phán
không
xét
miễn,
giảm
tạm
ứng
án
phí,
án
phí
cho
họ
vì
không
đảm
bảo
đầy
đủ
điều
kiện
theo
quy
định
tại
Điều
14
Nghị
quyết
326/2016/UBTVQH14.
Những
trường
hợp
nêu
trên,
Viện
kiểm
sát
không
thể
thực
hiện
việc
kiến
nghị
hoặc
kháng
nghị
vì
trường
hợp
không
có
đơn
nhưng
đương
sự
có
đủ
căn
cứ
chứng
minh
họ
thuộc
đối
tượng
được
miễn
giảm
tạm
ứng
án
phí,
án
phí
theo
quy
định.
Trường
hợp
không
có
đơn
đề
nghị,
thẩm
phán
không
xem
xét
miễn
giảm
tạm
ứng
án
phí,
án
phí
là
không
vi
phạm,
nhưng
quyền
lợi
của
đương
sự
sẽ
bị
ảnh
hưởng.
Từ
những
thực
tiễn
nêu
trên,
thấy
rằng
việc
xem
xét
miễn
giảm
tạm
ứng
án
phí,
án
phí
Toà
án
trong
từng
vụ
án
được
các
thẩm
phán
áp
dụng
khác
nhau,
đề
nghị
các
cơ
quan
liên
ngành
trung
ương
sớm
ban
hành
hướng
dẫn
có
ràng
buộc
trách
nhiệm
đối
với
thẩm
phán
trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
án
để
các
đương
sự
được
hướng
dẫn,
giải
thích
đảm
bảo
quyền
lợi
cho
đương
sự
và
việc
thực
hiện
áp
dụng
pháp
luật
được
thống
nhất.
Ngô
Thị
Vỹ
-
Phòng
9,
Viện
KSND
tỉnh