Hoãn
chấp
hành
án
phạt
tù
là
một
chế
định
được
quy
định
pháp
luật
hình
sự
của
nước
ta,
thể
hiện
sự
khoan
hồng
của
chính
sách
pháp
luật,
tôn
trọng,
bảo
vệ
quyền
con
người,
quyền
công
dân.
Theo
quy
định
thì
khi
bản
án
đã
có
hiệu
lực
pháp
luật
thì
người
bị
kết
án
phải
chấp
hành.
Tuy
nhiên,
trên
thực
tế
có
những
lý
do
khách
quan
đặc
biệt
mà
người
bị
phạt
tù
chưa
thể
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
ngay
được
và
nếu
bắt
họ
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
trong
một
số
trường
hợp
có
thể
gây
ảnh
hưởng
đến
tính
mạng,
sức
khỏe
không
những
của
chính
bản
thân
họ
mà
còn
ảnh
hưởng
đến
gia
đình,
người
thân
của
họ,
do
đó
pháp
luật
có
quy
định
chặt
chẽ
đối
với
một
số
đối
tượng
thuộc
các
trường
hợp
nhất
định
mới
được
cơ
quan
có
thẩm
quyền
cho
hoãn
chấp
hành
án
phạt
tù:
Khoản
1
Điều
67
BLHS
năm
2015,
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2017
quy
định
gồm
các
trường
hợp
sau:
1.
Người
bị
xử
phạt
tù
có
thể
được
hoãn
chấp
hành
hình
phạt
trong
các
trường
hợp
sau
đây:
a)
Bị
bệnh
nặng
thì
được
hoãn
cho
đến
khi
sức
khỏe
được
hồi
phục;
b)
Phụ
nữ
có
thai
hoặc
đang
nuôi
con
dưới
36
tháng
tuổi,
thì
được
hoãn
cho
đến
khi
con
đủ
36
tháng
tuổi;
c)
Là
người
lao
động
duy
nhất
trong
gia
đình,
nếu
phải
chấp
hành
hình
phạt
tù
thì
gia
đình
sẽ
gặp
khó
khăn
đặc
biệt,
được
hoãn
đến
01
năm,
trừ
trường
hợp
người
đó
bị
kết
án
về
các
tội
xâm
phạm
an
ninh
quốc
gia
hoặc
các
tội
khác
là
tội
phạm
rất
nghiêm
trọng,
tội
phạm
đặc
biệt
nghiêm
trọng;
d)
Bị
kết
án
về
tội
phạm
ít
nghiêm
trọng,
do
nhu
cầu
công
vụ,
thì
được
hoãn
đến
01
năm.
Như
vậy,
có
thể
hiểu
hoãn
chấp
hành
án
phạt
tù
là
việc
Tòa
án
có
thẩm
quyền
tạm
thời
chưa
quyết
định
buộc
người
bị
kết
án
phải
chấp
hành
ngay
hình
phạt
tù
của
bản
án
đã
có
hiệu
lực
pháp
luật
vì
những
lý
do
nhất
định
khi
thỏa
mãn
một
trong
các
trường
hợp
được
quy
định
tại
khoản
1
Điều
67
Bộ
luật
hình
sự
năm
2015,
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2017.
Chánh
án
Tòa
án
đã
ra
quyết
định
thi
hành
án
có
thể
tự
mình
hoặc
theo
đơn
đề
nghị
của
người
bị
kết
án,
văn
bản
đề
nghị
của
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp,
cơ
quan
thi
hành
án
hình
sự
Công
an
cấp
huyện
nơi
người
chấp
hành
án
cư
trú,
ra
quyết
định
hoãn
chấp
hành
án
phạt
tù
(khoản
1
Điều 24
Luật
Thi
hành
án
hình
sự
năm
2019).
Trong
phạm
vi
bài
viết
này,
tôi
chỉ
đề
cấp
đến
điều
kiện
hoãn
chấp
hành
hình
phạt
từ
thuộc
trường
hợp
quy
định
tại
điểm
a,
khoản
1
Điều
67
BLHS.
-
Theo
hướng
dẫn
tại
điểm
a
tiểu
mục
7.1
mục
7
Nghị
quyết
số
01/2007/NQ-HĐTP
ngày
02/10/2007
của
Hội
đồng
thẩm
phán
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
hướng
dẫn
áp
dụng
một
số
quy
định
của
Bộ
luật
hình
sự
về
thời
hiệu
thi
hành
bản
án,
miễn
chấp
hành
hình
phạt,
giảm
thời
hạn
chấp
hành
hình
phạt
quy
định
“Là
người
bị
bệnh
nặng,
tức
là
bị
bệnh
đến
mức
không
thể
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
được
và
nếu
bắt
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
sẽ
nguy
hiểm
đến
tính
mạng
của
họ;
do
đó,
cần
thiết
phải
cho
họ
được
hoãn
chấp
hành
hình
phạt
tù
để
họ
có
điều
kiện
chữa
bệnh;
ví
dụ:
ung
thư
giai
đoạn
cuối,
xơ
gan
cổ
chướng,
lao
nặng
độ
4
kháng
thuốc,
bại
liệt,
suy
tim
độ
3
trở
lên,
suy
thận
độ
4
trở
lên,
HIV
chuyển
giai
đoạn
AIDS
đang
có
các
nhiễm
trùng
cơ
hội
và
có
tiên
lượng
xấu...
Phải
có
kết
luận
của
bệnh
viện
cấp
tỉnh
trở
lên
về
việc
người
bị
xử
phạt
tù
bị
bệnh
nặng
và
nếu
bắt
họ
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
sẽ
nguy
hiểm
đến
tính
mạng
của
họ”.
Ngoài
ra,
còn
được
quy
định
tại
khoản
7
Điều
25
Luật
Thi
hành
án
hình
sự
năm
2019.
Như
vậy,
khi
xem
xét
cho
người
bị
xử
phạt
tù
đang
tại
ngoại
được
hoãn
chấp
hành
hình
phạt
tù
vì
lý
do
bị
bệnh
nặng,
không
thể
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
được
với
điều
kiện
là
“Phải
có
kết
luận
của
bệnh
viện
cấp
tỉnh
trở
lên
về
việc
người
bị
xử
phạt
tù
bị
bệnh
nặng
và
nếu
bắt
họ
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
sẽ
nguy
hiểm
đến
tính
mạng
của
họ”,
thì
được
hoãn
cho
đến
khi
sức
khỏe
được
hồi
phục;
Tuy
nhiên,
trong
thực
tiễn
qua
công
tác
kiểm
sát
thi
hành
án
hình
sự
trên
địa
bàn
huyện
Yên
Sơn
phát
sinh
một
số
trường
hợp
người
bị
xử
phạt
tù
đang
tại
ngoại
do
bị
tai
nạn
rủi
do
(Tai
nạn
giao
thông,
tai
nạn
lao
động),
mắc
bệnh
hiểm
nghèo…gây
ảnh
hưởng
nghiêm
trọng
đến
sức
khỏe
của
họ
như
bị
hoại
tử
chân,
liệt
chân
không
thể
đi
lại
được,
nhưng
do
điều
kiện
kinh
tế
khó
khăn
người
phải
thi
hành
án
không
đến
điều
trị
tại
một
cơ
sở
y
tế
nào
do
đó
không
có
hồ
sơ
bệnh
án,
kết
luận
theo
quy
định
để
Tòa
án
ra
quyết
định
hoãn
chấp
hành
án
phạt
tù
cho
họ,
nhưng
nếu
cứ
cứng
nhắc
bắt
họ
phải
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
sẽ
nguy
hiểm
đến
tính
mạng,
sức
khỏe
của
họ.
-
Cụ
thể,
người
bị
xử
phạt
tù:
TXH,
trú
tại
thôn
N,
xã
MB,
huyện
Yên
Sơn
là
người
phải
chấp
hành
án
phạt
tù
có
đơn
xin
hoãn
chấp
hành
hình
phạt
tù
do
bị
tai
nạn
giao
thông,
đến
thời
điểm
hiện
tại
chân
phải
của
H
bị
hoại
tử
nặng
không
thể
đi
lại
được.
Quá
trình
giải
quyết,
Tòa
án
xem
xét
hồ
sơ
và
yêu
cầu
người
phải
thi
hành
án
bổ
sung
hồ
sơ
bệnh
án,
tuy
nhiên
do
H
không
đến
điều
trị
tại
một
cơ
sở
y
tế
nào
do
đó
không
có
hồ
sơ
bệnh
án,
kết
luận
theo
quy
định
để
cung
cấp
cho
Tòa
án.
Do
đó
Tòa
án
không
đồng
ý
hoãn
chấp
hành
án
phạt
tù
và
đã
có
văn
bản
trả
lời
người
phải
thi
hành
án
và
thông
báo
cho
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp
theo
quy
định
và
yêu
cầu
H
phải
có
mặt
tại
Cơ
quan
thi
hành
án
hình
sự
Công
an
huyện
Yên
Sơn
để
chấp
hành
án,
nếu
không
tự
nguyện
đi
chấp
hành
án
sẽ
bị
áp
giải
theo
quy
định.
Khi
Cơ
quan
thi
hành
án
hình
sự
tiến
hành
đôn
đốc,
xác
minh
thực
tế
tại
địa
phương
và
xác
định
tình
trạng
thương
tích
của
TXH
“chân
phải
bị
hoại
tử
nặng,
khó
khăn
trong
việc
đi
lại
và
tự
phục
vụ
bản
thân”
nên
Cơ
quan
thi
hành
án
hình
sự
Công
an
huyện
đã
có
văn
bản
đề
nghị
Tòa
án
huyện
xem
xét
ra
quyết
định
hoãn
chấp
hành
án
phạt
tù
đối
với
TXH.
Trên
cơ
sở
đề
nghị
của
Cơ
quan
thi
hành
án
hình
sự
Công
an
huyện,
Tòa
án
tiến
hành
xác
minh
và
đã
ra
quyết
định
hoãn
thi
hành
án
đối
với
TXH.
-
Qua
kiểm
sát
quyết
định
hoãn
chấp
hành
hình
phạt
tù
của
Tòa
án,
Viện
kiểm
sát
tiến
hành
xác
minh
đối
với
trường
hợp
trên,
xác
định:
TXH
chân
phải
bị
hoại
tử
do
bị
tai
nạn
giao
thông,
bản
thân
H
không
có
thu
nhập;
vợ
H
bị
tai
nạn
lao
động
(chấn
thương
đốt
sống
cổ)
nằm
bất
động
một
chỗ;
gia
đình
thuộc
hộ
nghèo
của
xã,
hiện
sống
dựa
vào
nguồn
hỗ
trợ
của
nhà
nước,
do
đó
H
không
có
điều
kiện
đi
chữa
trị
thương
tích
tại
Bệnh
viện
nên
không
có
hồ
sơ
bệnh
án
và
kết
luận
của
bệnh
viện.
Từ
trường
hợp
nêu
trên
thấy
rằng:
nếu
chỉ
căn
cứ
vào
điểm
a
khoản
1
Điều
67
BLHS
năm
2015,
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2017
và
điểm
a
tiểu
mục
7.1
mục
7
Nghị
quyết
số
01/2007/NQ-HĐTP
ngày
02/10/2007
của
Hội
đồng
thẩm
phán
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
thì
trường
hợp
TXH
không
đủ
điều
kiện
để
được
hoãn
thi
hành
án.
Nhưng
nếu
bắt
TXH
phải
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
sẽ
nguy
hiểm
đến
tính
mạng,
sức
khỏe
của
H
và
Cơ
quan
thi
hành
án
hình
sự
Công
an
huyện
Yên
Sơn
cũng
không
tiếp
nhận
theo
yêu
cầu.
Nhưng
nếu
đối
chiếu
các
quy
định
của
pháp
luật
với
trường
hợp
thực
tiễn
nêu
trên
thấy
rằng
Quyết
hoãn
thi
hành
án
đối
với
TXH
của
Tòa
án
nhân
dân
huyện
Yên
Sơn
là
chưa
đảm
bảo
căn
cứ
pháp
lý,
nhưng
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
huyện
Yên
Sơn
cũng
không
thể
ban
hành
văn
bản
kiến
nghị,
kháng
nghị
đối
với
quyết
định
trên.
Trên
quan
điểm,
lập
trường
cá
nhân
tôi
lại
thấy
quyết
định
trên
là
hợp
tình,
nhân
văn,
thể
hiện
được
tính
nhân
đạo,
sự
khoan
hồng
của
chính
sách
pháp
luật,
tôn
trọng
quyền
con
người,
quyền
công
dân.
Kính
mong
nhận
được
sự
trao
đổi
và
góp
ý
của
các
độc
giả.
Lê
Hải
Dũng,
Kiểm
tra
viên,
Viện
KSND
huyện
Yên
Sơn