Theo
khoản
1,
Điều
134
Luật
xử
lý
vi
phạm
hành
chính
năm
2012
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2020)
quy
định:
“Việc
xử
lý
người
chưa
thành
niên
vi
phạm
hành
chính
chỉ
được
thực
hiện
trong
trường
hợp
cần
thiết
nhằm
giáo
dục,
giúp
đỡ
họ
sửa
chữa
sai
lầm,
phát
triển
lành
mạnh
và
trở
thành
công
dân
có
ích
cho
xã
hội”;
Theo
khoản
1
Điều
91
Bộ
luật
Hình
sự
(BLHS)
năm
2015
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2017)
quy
định:
“Việc
xử
lý
người
dưới
18
phạm
tội
phải
đảm
bảo
lợi
ích
tốt
nhất
của
người
dưới
18
và
chủ
yếu
nhằm
mục
đích
giáo
dục,
giúp
đỡ
họ
sửa
chữa
sai
lầm,
phát
triển
lành
mạnh,
trở
thành
người
công
dân
có
ích
cho
xã
hội…”.
Đây
là
những
nguyên
tắc
cơ
bản
được
thể
hiện
chính
sách
hành
chính,
chính
sách
pháp
luật
về
hình
sự
đối
với
người
chưa
thành
niên
vi
phạm
pháp
luật
và
người
dưới
18
tuổi
phạm
tội
nhằm
mục
đích
giáo
dục,
giúp
đỡ
họ
sửa
chữa
sai
lầm,
phát
triển
lành
mạnh
và
trở
thành
công
dân
có
ích
cho
xã
hội
là
hết
sức
cần
thiết.
Trên
thực
tế
việc
áp
dụng
nhận
thấy
còn
một
số
quy
định
của
pháp
luật
áp
dụng
đối
với
người
dưới
18
tuổi
phạm
tội
còn
bất
cập,
chưa
thực
sự
phù
hợp
trong
việc
sử
dụng
tiền
sự
của
người
chưa
thành
niên
“đã
bị
xử
lý
hành
chính
về
hành
vi
này”
hoặc
tiền
án
của
người
dưới
18
tuổi“đã
bị
kết
án
về
tội
này”
để
định
tội,
tội
phạm
chủ
yếu
thuộc
về
các
nhóm
tội
được
quy
định
trong
BLHS
như
“Các
tội
phạm
xâm
phạm
sở
hữu”,
“Các
tội
phạm
khác
xâm
phạm
trật
tự
công
cộng”…;
Để
làm
rõ
những
vướng
mắc
bất
cập
này,
tác
giả
đưa
ra
tình
huống
cụ
thể
để
đánh
giá,
phân
tích
như
sau:
Tình
huống
thứ
nhất:
Ngày
01/10/2019
Nguyễn
Văn
A,
sinh
ngày
01/9/2003
trộm
cắp
tài
sản
của
người
khác
trị
giá
3.000.000đ.
Bản
án
số
123/2019/HSST
ngày
01/12/2019
của
Tòa
án
nhân
dân
huyện
X
xử
phạt
06
tháng
tù
cho
hưởng
án
treo,
thời
gian
thử
thách
01
năm
kể
từ
ngày
tuyên
án.
Ngày
02/12/2020,
sau
khi
chấp
hành
xong
thời
gian
thử
thách
án
treo,
A
tiếp
tục
thực
hiện
hành
vi
trộm
cắp
tài
sản
của
người
khác
trị
giá
500.000
đồng;
Điều
107
BLHS
quy
định
về
xóa
án
tích
“1.
Người
dưới
18
tuổi
bị
kết
án
được
coi
là
không
có
án
tích,
nếu
thuộc
một
trong
các
trường
hợp
sau
đây:
a)
…;
b)
Người
từ
đủ
16
tuổi
đến
dưới
18
tuổi
bị
kết
án
về
tội
phạm
ít
nghiêm
trọng,
tội
phạm
nghiêm
trọng
hoặc
tội
phạm
rất
nghiêm
trọng
do
vô
ý;
Như
vậy,
căn
cứ
điểm
b,
khoản
1
Điều
107
BLHS
quy
định
về
xóa
án
tích
đối
với
người
dưới
18
tuổi
thì
Bản
án
số
123/2019/HSST
ngày
01/12/2019
của
Tòa
án
nhân
dân
huyện
X
xử
phạt
Nguyễn
Văn
A
06
tháng
tù
cho
hưởng
án
treo,
thời
gian
thử
thách
01
năm
kể
từ
ngày
tuyên
án
không
bị
coi
là
đã
có
án
tích
vì
khi
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
A
mới
16
tuổi
01
tháng.
Do
đó
hành
vi
trộm
cắp
ngày
02/12/2020
của
A
chỉ
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
theo
khoản
1
Điều
15
Nghị
định
167/2013/NĐ-CP
ngày
12/11/2013
của
Chính
phủ.
Tình
huống
thứ
hai:
Cùng
ngày
01/10/2019
Nguyễn
Văn
B,
cũng
sinh
ngày
01/9/2003
trộm
cắp
tài
sản
của
người
khác
trị
giá
1.000.000
đồng,
tại
Quyết
định
số
231
ngày
02/11/2019
của
Trưởng
Công
an
huyện
X
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
đối
với
B
về
hành
vi
trộm
cắp
tài
sản
bằng
hình
thức
phạt
tiền
1.000.000
đồng,
ngày
03/11/2019
B
chấp
hành
xong
tiền
phạt.
Ngày
01/02/2020,
A
tiếp
tục
có
hành
vi
trộm
cắp
tài
sản
trị
giá
500.000
đồng.
Trong
tình
huống
này,
ở
lần
trộm
cắp
tài
sản
thứ
nhất
của
B
chưa
đủ
định
lượng
cấu
thành
tội
trộm
cắp
tài
sản
quy
định
tại
Điều
173
BLHS
nên
đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính.
Ở
lần
trộm
cắp
tài
sản
thứ
hai
(ngày
01/02/2020),
B
trộm
cắp
tài
sản
trị
giá
500.000
đồng,
nhưng
khoản
1
Điều
137
Luật
xử
lý
vi
phạm
hành
chính
quy
định“Người
chưa
thành
niên
được
coi
là
chưa
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
nếu
trong
thời
hạn
06
tháng,
kể
từ
ngày
chấp
hành
xong
quyết
định
xử
phạt
hoặc
từ
ngày
hết
thời
hiệu
thi
hành
quyết
định
xử
phạt
mà
không
tái
phạm”,
trong
tình
huống
này
B
chấp
hành
nộp
phạt
theo
Quyết
định
xử
phạt
hành
chính
số
231
ngày
02/11/2019
là
ngày
03/11/2019,
đến
ngày
thực
hiện
hành
vi
trộm
cắp
thứ
hai
(ngày
01/02/2020)
không
được
coi
là
chưa
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính.
Theo
quy
định
tại
điểm
a,
khoản
1
Điều
173
BLHS
thì
hành
vi
trộm
cắp
lần
thứ
hai
của
B
cấu
thành
tội
Trộm
cắp
tài
sản
“Đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
về
hành
vi
chiếm
đoạt
tài
sản
mà
còn
vi
phạm”.
Với
hai
tình
huống
nêu
trên
có
thể
nhận
thấy
về
chủ
thể,
khách
thể
là
như
nhau
(cùng
là
người
chưa
thành
niên
từ
16
tuổi
đến
dưới
18
tuổi
thực
hiện
hành
vi
trộm
cắp
tài
sản).
Điểm
khác
biệt
ở
đây
là
tính
chất,
mức
độ
nguy
hiểm
của
hành
vi
được
quy
định
trong
Bộ
luật
hình
sự,
lần
phạm
tội
thứ
nhất
của
Nguyễn
Văn
A
được
pháp
luật
hình
sự
quy
định
là
tội
phạm
và
bị
kết
tội
bằng
một
bản
án;
hành
vi
của
Nguyễn
Văn
B
không
coi
là
tội
phạm
chỉ
bị
xử
phạt
hành
chính
là
phù
hợp
với
quy
định
của
pháp
luật.
Tuy
nhiên,
điểm
bất
cập
sẽ
không
phát
sinh
nếu
A
và
B
không
thực
hiện
hành
vi
trộm
cắp
tài
sản
lần
thứ
hai,
nhưng
A
và
B
tiếp
tục
cùng
có
hành
vi
trộm
cắp
tài
sản,
giá
trị
tài
sản
đều
dưới
2.000.000
đồng.
Theo
quy
định
tại
điểm
b,
khoản
1
Điều
107
BLHS
hành
vi
của
A
lại
không
cấu
thành
tội
phạm
do
bản
án
đã
tuyên
đối
với
A
không
được
coi
là
đã
có
án
tích.
Đối
với
hành
vi
của
B
cùng
tính
chất,
mức
độ
nhưng
lại
cấu
thành
tội
Trộm
cắp
tài
sản
do
đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính,
chưa
hết
thời
hạn
được
coi
là
chưa
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính.
Chính
sách
pháp
luật
đối
với
người
chưa
thành
niên
vi
phạm
pháp
luật
giữa
Luật
xử
lý
vi
phạm
hành
chính
năm
2012
với
chính
sách
pháp
luật
đối
với
người
dưới
18
tuổi
phạm
tội
theo
quy
định
của
BLHS
năm
2015
phải
mang
tính
đồng
bộ
và
đảm
bảo
tính
công
bằng,
hợp
lý
theo
nguyên
tắc
có
lợi
cho
người
phạm
tội
dưới
18
tuổi
để
phù
hợp
với
tâm
lý,
lứa
tuổi,
mức
độ
trưởng
thành,
khả
năng
nhận
thức,
bảo
đảm
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
dưới
18
tuổi.
Tác
giả
kiến
nghị
sửa
đổi,
bổ
sung
khoản
1
Điều
137
Luật
xử
lý
vi
phạm
hành
chính
“Thời
hạn
được
coi
là
chưa
bị
xử
phạt
hành
chính
đối
với
người
chưa
thành
niên”,
theo
hướng
“Người
đủ
16
tuổi
đến
dưới
18
tuổi
đã
bị
xử
phạt
hành
chính
được
coi
là
chưa
bị
xử
phạt
hành
chính”.
Như
vậy,
mới
đảm
bảo
tính
công
bằng
và
phù
hợp
với
điểm
b
khoản
1
Điều
107
BLHS
nêu
trên.
Trên
đây
là
một
số
ý
kiến
của
tác
giả,
rất
mong
sự
tham
gia
đóng
góp
ý
kiến
của
bạn
đọc.
Cấn
Văn
Tuấn
-
VKSND
huyện
Hàm
Yên