Tai
nạn
giao
thông
là
vấn
đề
nhức
nhối
đang
được
xã
hội
quan
tâm
và
trở
thành
hiểm
họa
đối
với
bất
kì
ai
khi
tham
gia
giao
thông.
Trong
những
năm
qua,
mặc
dù
Đảng,
Nhà
nước,
Chính
phủ
đã
đề
ra
nhiều
biện
pháp
nhằm
kiềm
chế,
giảm
thiểu
tai
nạn
giao
thông
nhưng
tình
trạng
vi
phạm
các
quy
định
về
an
toàn
giao
thông
vẫn
chưa
thuyên
giảm,
nhiều
vụ
tai
nạn
giao
thông
gây
hậu
quả
đặc
biệt
nghiêm
trọng
vẫn
xảy
ra.
Do
đó
chính
sách
pháp
luật
về
hình
sự
cũng
được
thay
đổi
theo
nhằm
hạn
chế
tình
trạng
tai
nạn
giao
thông.
Tuy
nhiên
bên
cạnh
những
thay
đổi
tích
cực
thì
tội
Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
được
quy
định
tại
Điều
260
BLHS
năm
2015
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2017)
lại
có
những
bất
cập,
gây
khó
khăn
khi
xử
lý,
giải
quyết
các
vụ
án
gây
tai
nạn
giao
thông.
1.
Những
quy
định
mới
của
Điều
260
BLHS
năm
2015
so
với
Điều
202
BLHS
năm
1999
1.1.
Mở
rộng
về
chủ
thể
của
tội
phạm
Theo
quy
định
tại
Điều
202
BLHS
năm
1999
tội
Vi
phạm
quy
định
về
điều
khiển
phương
tiện
giao
thông
đường
bộ: “Người
nào
điều
khiển
phương
tiện
giao
thông
đường
bộ mà
vi
phạm
quy
định
về
an
toàn
giao
thông
đường
bộ
gây
thiệt
hại
cho
tính
mạng
hoặc
gây
thiệt
hại
nghiêm
trọng
cho
sức
khỏe,
tài
sản
của
người
khác
thì
bị
phạt
tiền
từ
5
triệu
đồng
đến
năm
mươi
triệu
đồng,
cải
tạo
không
giam
giữ
đến
3
năm
hoặc
phạt
từ
từ
6
tháng
đển
5
năm”.
Ta
thấy
chủ
thể
của
điều
luật
quy
định
chỉ
là
những
người
điều
khiển
phương
tiện
giao
thông
đường
bộ.
Theo
BLHS
năm
2015
chủ
thể
của
tội
này
đã
được
mở
rộng
hơn.
Cụ
thể
Điều
260
BLHS
năm
2015
quy
định
“Người
nào
tham
gia
giao
thông
đường
bộ mà
vi
phạm
quy
định
về
an
toàn
giao
thông
đường
bộ
thuộc
một
trong
các
trường
hợp
sau
đây
thì
bị
phạt
tiền
từ
30.000.000
đồng
đến
100.000.000
đồng,
phạt
cải
tạo
không
giam
giữ
đến
03
năm
hoặc
phạt
tù
từ
01
đến
05
năm”.
Ta
có
thể
thấy
rằng
chủ
thể
của
tội
Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
theo
quy
định
tại
Điều
260
BLHS
năm
2015
là
những
người
tham
gia
giao
thông
đường
bộ.
Mặt
khác
theo
quy
định
tại
khoản
22
Điều
3
Luật
Giao
thông
đường
bộ
năm
2008
quy
định
“Người
tham
gia
giao
thông
gồm: người
điều
khiển,
người
sử
dụng
phương
tiện
tham
gia
giao
thông
đường
bộ;
người
điều
khiển,
dẫn
dắt
súc
vật;
người
đi
bộ
trên
đường
bộ”.
1.2.
Về
khung
hình
phạt
So
với
Điều
202
BLHS
năm
1999,
thì
Điều
260
BLHS
năm
2015
tăng
mức
phạt
tiền
là
hình
phạt
chính;
tăng
mức
khởi
điểm
hình
phạt
tù
(khoản
1);
quy
định
hình
phạt
tiền
là
hình
phạt
chính;
giảm
mức
tối
đa
hình
phạt
tù
(khoản
4).
2.
Một
số
khó
khăn,
vướng
mắc
trong
việc
xử
lý
các
vụ
án
Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
2.1.
Theo
các
quy
định
tại
điểm
b
khoản
2
Điều
260
BLHS
năm
2015,
khoản
8
Điều
8
Luật
Giao
thông
đường
bộ
năm
2008
và
Khoản
2
Điều
3
Thông
tư
liên
tịch
số
09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày
28/8/2013
đều
quy
định:
“Trong
tình
trạng
có
sử
dụng
rượu,
bia
mà
trong
máu
hoặc
hơi
thở
có
nồng
độ
cồn
vượt
quá
mức
quy
định,
có
sử
dụng
chất
ma
túy
hoặc
chất
kích
thích
mạnh
khác”
những
quy
định
trên
đây
mâu
thuẫn
với
quy
định
tại
Khoản
1
Điều
35
Luật
Phòng
chống
tác
hại
của
rượu
bia
năm
2019
đo
là:
“Điều
khiển
phương
tiện
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
mà
trong
máu
hoặc
hơi
thở
có
nồng
độ
cồn”.
Như
vậy,
cần
quy
định
lại
điểm
b
khoản
2
Điều
260
BLHS
năm
2015
cho
phù
hợp
với
Luật
Phòng
chống
tác
hại
của
rượu
bia
năm
2019.
*
Đề
xuất:
Sửa
đổi
điểm
b
khoản
2
Điều
260
BLHS
năm
2015
thành:
“Trong
tình
trạng
có
sử
dụng
rượu,
bia
mà
trong
máu
hoặc
hơi
thở
có
nồng
độ
cồn,
có
sử
dụng
chất
ma
túy
hoặc
chất
kích
thích
mạnh
khác”.
2.2.
Bất
cập
khi
căn
cứ
vào
hậu
quả
Kế
thừa
Điều
202
BLHS
năm
1999
và
hướng
dẫn
tại
Thông
tư
liên
tịch
số
09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC
ngày
28/8/2013
của
Bộ
Công
an,
Bộ
Quốc
phòng,
Bộ
Tư
pháp,
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao,
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
hướng
dẫn
áp
dụng
quy
định
tại
Chương
XIX
của
BLHS
về
các
tội
xâm
phạm
trật
tự,
an
toàn
giao
thông,
Điều
260
BLHS
năm
2015
đã
liệt
kê
cụ
thể
các
tình
tiết
định
tội
và
định
khung
hình
phạt
thành
các
điểm,
khoản
tương
ứng.
Tuy
nhiên
việc
quy
định
như
vậy
theo
quan
điểm
cá
nhân
vẫn
còn
một
số
thiếu
sót.
Theo
quy
định
tại
điểm
a,
c
khoản
1,
điểm
đ,
e
khoản
2,
điểm
a,
b
khoản
3
Điều
260
BLHS
năm
2015:
“1.
Người
nào
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
mà
vi
phạm
quy
định
về
an
toàn
giao
thông
đường
bộ
gây
thiệt
hại
cho
người
khác
thuộc
một
trong
các
trường
hợp
sau
đây,
thì
bị
phạt
tiền
từ
30.000.000
đồng
đến
100.000.000
đồng,
phạt
cải
tạo
không
giam
giữ
đến
03
năm
hoặc
phạt
tù
từ
01
năm
đến
05
năm:
a)
Làm
chết
người;
…
c)
Gây
thương
tích
hoặc
gây
tổn
hại
cho
sức
khỏe
của
02
người
trở
lên
mà
tổng
tỷ
tổn
thương
cơ
thể
của
những
người
này
từ
61%
đến
121%;
…
2.
Phạm
tội
một
trong
các
trường
hợp
sau
đây,
thì
bị
phạt
tù
từ
03
năm
đến
10
năm:
…
đ)
Làm
chết
02
người;
e)
Gây
thương
tích
hoặc
gây
tổn
hại
cho
sức
khỏe
của
02
người
trở
lên
mà
tổng
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
của
những
người
này
từ
122%
đến
200%;
…
3.
Phạm
tội
một
trong
các
trường
hợp
sau
đây,
thì
bị
phạt
tù
từ
07
năm
đến
15
năm:
a)
Làm
chết
03
người
trở
lên;
b)
Gây
thương
tích
hoặc
gây
tổn
hại
cho
sức
khỏe
của
03
người
trở
lên
mà
tổng
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
của
những
người
này
201%
trở
lên;
…”.
Như
vậy
bị
can
phạm
tội
Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
mà
hậu
quả
làm
01
người
chết
và
01
người
bị
thương
(tổn
thương
50%
sức
khỏe)
thì
sẽ
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự
theo
quy
định
tại
điểm
a
khoản
1
Điều
260
BLHS,
còn
bị
can
phạm
tội
Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
mà
hậu
quả
02
người
bị
thương
(01
người
tổn
thương
80%
sức
khỏe,
01
người
tổn
thương
50%
sức
khỏe)
sẽ
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự
theo
quy
định
tại
điểm
e
khoản
2
Điều
260
BLHS.
Như
vậy
bị
can
gây
hậu
quả
lớn
hơn
(chết
01
người,
01
người
bị
tổn
thương
50%
sức
khỏe)
lại
phải
chịu
trách
nhiệm
hình
sự
với
khung
hình
phạt
nhẹ
hơn
bị
can
gây
hậu
quả
ít
hơn
(01
người
bị
tổn
thương
80%
sức
khỏe,
01
người
tổn
thương
50%
sức
khỏe).
Ví
dụ
cụ
thể:
Ngày
01/01/2020,
A
lái
xe
ôtô
đi
sai
phần
đường
nên
đâm
vào
xe
ô
tô
đi
ngược
chiều
gây
tai
nạn
làm
01
người
chết
và
01
người
bị
tổn
thương
50%
sức
khỏe.
Hành
vi
nêu
trên
của
A
đã
phạm
vào
tội
“Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ”
quy
định
tại
điểm
a
khoản
1
Điều
260
BLHS.
Cùng
ngày,
B
lái
xe
ô
tô
đi
sai
phần
đường
nên
đâm
vào
xe
ô
tô
đi
người
chiều
gây
tại
nạn
làm
01
người
bị
tổn
thương
80%
sức
khỏe,
01
người
tổn
thương
50%
sức
khỏe
(tổng
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
của
02
người
là
130%).
Hành
vi
nêu
trên
của
B
đã
phạm
vào
tội
“Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ”
quy
định
tại
điểm
e
khoản
2
Điều
260
BLHS.
Từ
ví
dụ
trên
ta
thấy
hành
vi
của
A
gây
hậu
quả
nghiêm
trọng
hơn
hành
vi
của
B
nhưng
A
lại
chịu
trách
nhiệm
hình
sự
nhẹ
hơn
so
với
B.
Do
đó
sẽ
tạo
động
cơ
xấu
cho
các
đối
tượng
phạm
tội
như
sau
khi
gây
tai
nạn
đối
tượng
phạm
tội
sẽ
không
chủ
động
đưa
người
bị
nạn
đi
cấp
cứu
mà
có
thể
bỏ
mặc
hoặc
cố
tình
làm
cho
người
bị
nạn
chết
nhằm
đuợc
hưởng
mức
hình
phạt
nhẹ
hơn.
Tương
tự
với
trường
hợp
02
người
chết,
01
người
bị
thương
theo
điểm
đ
khoản
2
Điều
260
BLHS
và
03
người
bị
thương
(tổng
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
là
220%)
theo
quy
định
tại
điểm
b
khoản
3
Điều
260
BLHS. Đây
cũng
là
một
bất
cập
của
Điều
260
BLHS
2015.
*
Đề
xuất:
Liên
ngành
trung
ương
có
hướng
dẫn
cụ
thể
Điều
260
BLHS
theo
hướng
quy
định
nạn
nhân
bị
chết
được
tính
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
là
100%
để
có
thể
cộng
với
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
với
các
nạn
nhân
khác.
2.3.
Khó
khăn
trong
áp
dụng
điểm,
khoản
của
Điều
260-BLHS
Trong
trường
hợp
1
người
điều
khiển
ô
tô
tham
gia
giao
thông
gây
tai
nạn
làm
chết
1
người
và
bị
thương
2
người
với
tổng
tỷ
lệ
thuơng
tật
122
%
khi
khởi
tố
và
truy
tố
thì
áp
dụng
điểm
nào,
khoản
nào
của
Điều
260
BLHS,
vì
nếu
áp
dụng
điểm
a
khoản
1
thì
bỏ
lọt
hành
vi
gây
thưong
tích,
còn
nếu
áp
dụng
điểm
e
khoản
2
thì
bỏ
lọt
hành
vi
làm
chết
người
nhưng
lại
không
thể
áp
dụng
cả
khoản
1
và
khoản
2
trong
quyết
định
khởi
tố,
truy
tố.
2.4.
Bất
cập
trong
xử
lý
đối
với
giấy
phép
lái
xe
trong
các
vụ
án
"Vi
phạm
quy
định
về
điều
khiển
phương
tiện
giao
thông
đường
bộ"
Trong
cấu
thành
của
Điều
202
BLHS
năm
1999
và
Điều
260
BLHS
năm
2015
đều
chỉ
đề
cập
đến
việc
người
phạm
tội
không
có
giấy
phép
lái
xe
sẽ
bị
xử
lý
ở
khoản
2
của
những
điều
luật
này
nếu
gây
hậu
quả
tương
đương
ở
khoản
1
của
điều
này.
Như
vậy
nhà
làm
luật
đã
xác
định
việc
không
có
giấy
phép
lái
xe
là
một
tình
tiết
có
tính
chất
nguy
hiểm
đối
với
loại
hành
vi
phạm
tội
này.
Quy
định
như
vậy
là
hợp
lý
và
rõ
ràng
để
đảm
bảo
mọi
người
khi
tham
gia
giao
thông
buộc
phải
có
giấy
phép
lái
xe
để
đảm
bảo
họ
hiểu
rõ
quy
tắc
giao
thông
khi
điều
khiển
các
phương
tiện
giao
thông
và
khi
xẩy
ra
các
hành
vi
phạm
tội
thì
họ
sẽ
chỉ
bị
xử
lý
ở
khung
hình
phạt
thấp
hơn
so
với
không
có
giấy
phép
lái
xe.
Bên
cạnh
đó
tại
Khoản
6,
Điều
260
BLHS
2015
chỉ
quy
định
về
cấm
hành
nghề
hoặc
đảm
nhiệm
một
công
việc
nhất
định.
Như
vậy
việc
cấm
này
cũng
chỉ
nhằm
vào
các
đối
tượng
liên
quan
đến
yếu
tố
điều
khiển
phương
tiện
giao
thông
đường
bộ
là
nghề
nghiệp
mà
không
đề
cập
đến
việc
hạn
chế
quyền
điều
khiển
phương
tiện
của
người
phạm
tội
mà
không
đề
cập
đến
quyền
điều
khiển
phương
tiện
của
họ.
Như
vậy
họ
vẫn
hoàn
toàn
có
thể
điều
khiển
phương
tiện
giao
thông
đường
bộ
chỉ
không
được
phép
làm
nghề
nghiệp
liên
quan
đến
hoạt
động
điều
khiển
phương
tiện
giao
thông
đường
bộ. Mặt
khác
theo
quy
định
Nghị
định
100/2019/NĐ-CP
ngày
30/12/2019
của
Chính
phủ
Quy
định
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
trong
lĩnh
vực
giao
thông
đường
bộ
và
đường
sắt
có
quy
định
về
việc
người
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
vi
phạm
có
thể
bị
tước
giấy
phép
lái
xe.
*
Đề
xuất:
Từ
những
phân
tích
đánh
giá
trên
đây,
đề
xuất
bổ
sung
thêm
nội
dung
“Tước
giấy
phép
lái
xe”
vào
quy
định
tại
Khoản
5
Điều
260
BLHS.
Tuy
nhiên
do
phần
các
hình
phạt
của
BLHS
năm
2015
không
có
quy
định
hình
phạt
này
nên
cần
bổ
sung
hình
phạt
tước
giấy
phép
lái
xe
vào
Điều
41
BLHS.
Trên
đây
là
một
số
vướng
mắc,
bất
cập
và
đề
xuất
hướng
giải
quyết
từ
thực
tiễn
áp
dụng
Điều
260
BLHS
2015,
để
việc
áp
dụng
điều
luật
thật
sự
chính
xác
và
hiệu
quả
thì
rất
cần
sự
quan
tâm
của
các
cơ
quan
liên
ngành
Trung
ương,
để
sớm
ban
hành
hướng
dẫn
thống
nhất
trong
áp
dụng.
Có
như
vậy,
công
tác
đấu
tranh
phòng,
chống
loại
tội
phạm
này
trong
thực
tiễn
mới
đạt
hiệu
quả,
góp
phần
bảo
đảm
kiềm
chế,
giảm
thiểu
tai
nạn
giao
thông.
Phạm
Việt
Hùng
-
VKSND
huyện
Sơn
Dương