Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu - Trao đổi nghiệp vụ » Kiểm Sát Viên viết

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG - Đã xem: 53207

   Một số giải pháp trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa.


Thứ ba - 04/12/2018 10:42
 
          Nhằm không ngừng nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý VKSND cấp huyện, phát huy sức mạnh đoàn kết của tập thể Lãnh đạo viện và cán bộ công chức, người lao động, từ đó tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động của đội ngũ lãnh đạo quản lý nhất là người đứng đầu cơ quan đơn vị trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm sát ở cấp huyện, góp phần hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch công tác của Ngành và phục vụ kịp thời yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Cấp ủy, chính quyền địa phương.

          Trong giới hạn bài viết, Tác giả xin trao đổi một số vấn đề thực tiễn trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa  để bạn đọc cùng tham khảo và đóng góp ý kiến.

          1. Những hạn chế:

          - Thứ nhất: Công tác triển khai, quán triệt văn bản: Một số văn bản do Lãnh đạo Viện được phân công triển khai, quán triệt nhưng chưa thực hiện đầy đủ, kịp thời, còn dài dòng, chưa có trọng tâm, trọng điểm. Người được phân công ghi biên bản chưa ghi chép đầy đủ các văn bản được triển khai cũng như các ý kiến tham gia góp ý và phần kết luận của Chủ tọa.

          - Thứ hai: Công tác phân công nhiệm vụ còn có việc chưa khoa học, cụ thể; Viện trưởng còn phải làm nhiều việc thay nhiệm vụ của các Phó Viện trưởng phụ trách hoặc ngược lại.

          - Thứ ba: Công tác nắm bắt tâm lý, diễn biến tư tưởng của cán bộ, công chức và người lao động trong đơn vị còn hạn chế, chưa kịp thời phát hiện những biểu hiện mất đoàn kết nội bộ hoặc cán bộ có nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chưa yên tâm công tác... để có biện pháp giải quyết kịp thời; một số cán bộ, công chức ý thức trách nhiệm chưa cao, vẫn còn tư tưởng “làm lấy lệ”, trông chờ thụ động, ỷ lại; chưa tích cực, chủ động, sáng tạo trong công việc, chưa thực hiện đầy đủ yêu cầu tác nghiệp của Kiểm sát viên hướng dẫn và ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Viện phụ trách nhưng chưa được chấn chỉnh, xem xét trách nhiệm một cách thấu tình đạt lý.

          - Thứ tư: Công tác kiểm tra của Lãnh đạo Viện chưa thường xuyên theo kế hoạch đã đề ra, một số chỉ tiêu kế hoạch thực hiện chưa đúng thời gian, thời điểm; có Lãnh đạo Viện còn nể nang, ngại va chạm, chưa kiên quyết trong việc thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị dẫn đến chưa bảo đảm các chỉ tiêu công tác nghiệp vụ; công tác phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa tốt, còn tâm lý “quyền anh, quyền tôi’, chưa chú trọng việc tranh luận, trao đổi trực tiếp hoặc còn nặng nề về ban hành văn bản để lấy thành tích.

          2- Một số giải pháp, bài học kinh nghiệm:

          - Một là, chú trọng công tác quán triệt, triển khai và thực hiện văn bản: Căn cứ vào Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao, kế hoạch của VKSND tỉnh về công tác kiểm sát, tập trung chỉ đạo xây dựng kế hoạch công tác với những chỉ tiêu nghiệp vụ, các biện pháp thực hiện, phân công cụ thể người tiến hành và thời gian hoàn thành (có phụ lục chi tiết); Lãnh đạo Viện được phân công phải triển khai văn bản kịp thời, nghiên cứu kỹ, tổng hợp nội dung và hướng dẫn, giải đáp cụ thể những vấn đề thắc mắc của cán bộ, kiểm sát viên trong quá trình thực hiện. Phân công người có năng lực, kinh nghiệm trong việc tổng hợp, ghi chép biên bản họp, chủ trì cuộc họp cần kiểm tra kỹ nội dung biên bản trước khi ký kết thúc.

          - Hai là, công tác phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng: Viện trưởng chịu trách nhiệm chung, các Phó Viện trưởng được phân công quản lý và trực tiếp thực hiện nghiệp vụ kiểm sát ở từng khâu công tác cụ thể; xây dựng kế hoạch công tác cá nhân tuần, tháng và định kỳ hàng tuần hoặc đột xuất báo cáo kết quả công việc với Viện trưởng (nhất là những vụ việc có vướng mắc hoặc kháng nghị, kiến nghị vi phạm pháp luật) theo đúng quy định của Luật tổ chức VKSND và quy chế về mối quan hệ và trách nhiệm giữa Phó Viện trưởng với Viện trưởng. Phân công nhiệm vụ đối với cán bộ, Kiểm sát viên trên cơ sở trình độ, năng lực công tác theo hướng phát huy sở trường, thế mạnh cá nhân; Kiểm sát viên có kinh nghiệm phải kèm cặp, giúp đỡ kiểm sát viên trẻ, mới được bổ nhiệm hoặc kiểm tra viên, chuyên viên theo phương pháp đào tạo tại chỗ “trực quan sinh động, cầm tay chỉ việc”; Cán bộ nghiệp vụ có trách nhiệm giúp Kiểm sát viên thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

          - Ba là, đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra: Sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp lãnh đạo trực tiếp hoặc gián tiếp, trong đó kết hợp hài hòa các phương pháp mệnh lệnh hành chính, phương pháp công khai dân chủ, phương pháp tâm lý, phương pháp giáo dục, thuyết phục, động viên; lãnh đạo bằng cách nêu gương nhằm tạo ra sự đồng thuận, đoàn kết gắn bó giữa Lãnh đạo với cán bộ công chức và người lao động trong đơn vị. Xây dựng chương trình kế hoạch công tác phải lựa chọn những việc còn yếu còn hạn chế, từ đó xác định nhiệm vụ trọng tâm, khâu công tác đột phá để tổ chức thực hiện.

          Lãnh đạo Viện thường xuyên rà soát, kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch công tác để phân bổ thời gian thực hiện hợp lý. Thường xuyên giữ mối liên hệ với các phòng nghiệp vụ Viện kiểm sát tỉnh, kịp thời báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Viện trưởng cấp trên về những vướng mắc, bất cập trong quá trình công tác. Tạo điều kiện để cán bộ, Kiểm sát viên phát huy năng lực sở trường, tích cực chủ động trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Cán bộ, Kiểm sát viên hằng tuần báo cáo tiến độ giải quyết công việc được giao với Lãnh đạo phụ trách; trước khi hồ sơ vụ việc kết thúc, Kiểm sát viên phải tổng hợp báo cáo bằng văn bản, đề xuất hướng giải quyết. Xây dựng và thực hiện nghiêm chế độ tự kiểm tra nghiệp vụ hằng quý, 6 tháng, 1 năm và tự kiểm tra chéo giữa các khâu công tác. Trực tiếp Lãnh đạo Viện kiểm tra và ký ban hành các Yêu cầu xác minh, Yêu cầu điều tra nhằm nâng cao trách nhiệm cũng như chất lượng văn bản; các Phó Viện trưởng trong phạm vi, quyền hạn, nhiệm vụ được giao tích cực chủ động tăng cường đôn đốc kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, kiểm sát viên thuộc lĩnh vực phụ trách; Viện trưởng trực tiếp kiểm tra công việc của các Phó Viện trưởng và cán bộ công chức, người lao động trong đơn vị.

          - Bốn là, thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm của người đứng đầu: Viện trưởng chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của đơn vị; riêng lĩnh vực kiểm sát giải quyết án dân sự, hành chính.. Phó Viện trưởng phụ trách phải thường xuyên và trực tiếp báo cáo công tác với Viện trưởng để quản lý theo quy định. Lãnh đạo Viện thực hiện định kỳ hội ý công tác, các Phó Viện trưởng chủ động tham mưu đề xuất giải quyết công việc thuộc trách nhiệm, lĩnh vực được phân công phụ trách.    
  
          - Năm là, phát huy dân chủ, tính chủ động sáng tạo: Thực hiện công khai, minh bạch trong mọi hoạt động như: Chi tiêu tài chính, bình xét thi đua, đề nghị khen thưởng, nâng lương, quy hoạch, bổ nhiệm, đánh giá chất lượng xếp loại ngày công, chất lượng lao động, phân công giao việc.... Cán bộ, Kiểm sát viên được tạo mọi điều kiện để học tập nghiên cứu nâng cao trình độ; tham gia ý kiến tranh luận, thẳng thắn bày tỏ quan điểm xây dựng, trao đổi, phản biện trong công tác, từ đó xây dựng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giúp đỡ nhau trong nội bộ đơn vị. Lãnh đạo phụ trách phải nghiên cứu, chỉ đạo các bộ phận nghiệp vụ tiến hành lồng ghép các nội dung trong các cuộc trực tiếp kiểm sát như: Kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác tội phạm kết hợp với kiểm sát giải quyết đơn tư pháp; Kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ kết hợp với xác minh Thi hành án dân sự loại án không có điều kiện; Kiểm sát Nhà tạm giữ kết hợp với kiểm sát cơ quan THAHS...

          - Sáu là, phát huy vai trò gương mẫu đi đầu của Lãnh đạo đơn vị: Lãnh đạo đơn vị cần có tầm nhìn tư duy đổi mới, sáng tạo và tâm lý quản lý tốt; có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng thuyết trình, thuyết phục, phản biện… thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm, luôn đặt lợi ích chung lên hàng đầu, luôn gương mẫu đi đầu trong mọi lĩnh vực công tác (nhất là rèn luyện các kỹ năng nghiên cứu, tổng hợp hồ sơ, tranh tụng, hỏi cung bị can, ghi âm ghi hình có âm thanh, phiên tòa rút kinh nghiệm...); xây dựng và củng cố mối quan hệ đoàn kết trong nội bộ đơn vị và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, từ đó bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và làm thay đổi cả về lượng và chất trong công tác quản lý, lãnh chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo đơn vị. Khi xảy ra sai sót, Lãnh đạo Viện gương mẫu tự giác nhận trách nhiệm và nghiêm túc kiểm điểm trước tập thể đơn vị.

          - Bảy là, xây dựng mối quan hệ phối hợp: Tranh thủ sự ủng hộ của Cấp ủy, chính quyền địa phương, duy trì mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp, cơ quan hữu quan trên địa bàn. Xây dựng cơ chế, lề lối làm việc cụ thể phù hợp với điều kiện thực tiễn trong việc thực hiện Quy chế phối hợp giữa VKSND với Cơ quan điều tra, Tòa án, duy trì họp định kỳ giao ban nội chính và liên ngành để trực tiếp trao đổi, tranh luận đi đến thống nhất về nhận thức và hành động trong giải quyết các vấn đề vướng mắc về hình sự, dân sự, thi hành án. Đối với các Yêu cầu xác minh tin báo, Yêu cầu điều tra vụ án của Viện kiểm sát được gửi trực tiếp cho Thủ trưởng CQĐT để thường xuyên kiểm tra tiến độ điều tra, xác minh của Điều tra viên đối với vụ việc vào các ngày giao ban đầu tuần của CQĐT.

          - Tám là, nâng cao chất lượng trong hoạt động tranh tụng; kiên quyết thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị khi phát hiện có vi phạm pháp luật: Lãnh đạo Viện chủ động gương mẫu đi đầu trong hoạt động tranh tụng khi tham gia phiên tòa nhất là các phiên tòa rút kinh nghiệm. Xác định hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên tòa rút kinh nghiệm và công tác kháng nghị, kiến nghị trong các lĩnh vực nghiệp vụ nhằm không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên và thể hiện vai trò của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp.

          - Chín là, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý: Lãnh đạo Viện gương mẫu trong việc ứng dụng CNTT, sử dụng thành thạo máy vi tính, các ứng dụng Word, Excel, kỹ thuật trình chiếu Powerpoint; phần mềm kế toán, thống kê, quản lý án hình sự, dân sự, kết nối trực tuyến...; Thực hiện trình và duyệt các loại văn bản hành chính (không thuộc danh mục Mật) thông qua hộp thư điện tử nội bộ của Ngành, bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin và tiết kiệm chi phí văn phòng phẩm một cách hiệu quả. Tăng cường trao đổi nghiệp vụ, kiến nghị đề xuất tại các cuộc giao ban trực tuyến hàng tuần, tháng của VKSND tỉnh và hội nghị trực tuyến toàn Ngành.

          - Mười là, công tác đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm: Đây được coi là hoạt động có vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, qua đó tập thể, cá nhân rút ra bài học kinh nghiệm sau các cuộc tự kiểm tra, phiên tòa rút kinh nghiệm, các thông báo rút kinh nghiệm của Viện kiểm sát tỉnh và Viện kiểm sát tối cao từ đó hạn chế được những thiếu sót khuyết điểm tương tự, có hướng khắc phục phù hợp, đồng thời nâng cao nhận thức về lý luận cũng như thực tiễn nghiệp vụ công tác kiểm sát (cần tập hợp các Thông báo rút kinh nghiệm để đóng thành quyển nhằm hệ thống hóa, lưu trữ văn bản và phục vụ tra cứu được nhanh chóng).

           Việc thực hiện đổi mới công tác lãnh chỉ đạo điều hành là một nhiệm vụ cấp thiết đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo của VKSND cấp huyện hiện nay, với phương châm “đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, hội nhập” từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý “có tâm, có tầm” đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Ngành Kiểm sát trong tình hình mới và chiến lược cải cách tư pháp hiện nay.

 
                                                        Lưu Tiến Độ.
Tổng số điểm của bài viết là: 37 trong 9 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Scroll to top