Luật Thi hành án dân sự, Bộ luật dân sự và Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là những văn bản quan trọng, tạo dựng một hành lang, khung khổ pháp lý vững chắc, nâng cao hiệu lực, hiệu quả cho việc triển khai hoạt động thi hành án dân sự theo Bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật, do Bản án được Thẩm phán Nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nên Chấp hành viên của Cơ quan thi hành án dân sự có nghĩa vụ phải thực hiện đầy phần thi hành nghĩa vụ dân sự trong Bản án của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
Trong những năm qua, kết quả công tác thi hành án dân sự đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, các Bản án của Toà án đều được Chấp hành viên của Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thực hiện theo đúng quy định, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự, Bộ luật dân sự cũng như Thông tư số 11 đã bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc cần được nghiên cứu, đánh giá, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn hệ thống các quy định pháp luật về thi hành án dân sự; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
Đối những vụ án hình sự do nhiều người thực hiện gây thiệt hại về tài sản, sức khoẻ cho người khác, trong một số vụ án đều được tuyên nghĩa vụ liên đới bồi thường và chia theo phần theo quy định của Điều 288 Bộ luật dân sự quy định thực hiện nghĩa vụ liên đới như sau:
“1. Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
2. Trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình.
3. Trường hợp bên có quyền đã chỉ định một trong số những người có nghĩa vụ liên đới thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, nhưng sau đó lại miễn cho người đó thì những người còn lại cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ.
4. Trường hợp bên có quyền chỉ miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho một trong số những người có nghĩa vụ liên đới không phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì những người còn lại vẫn phải liên đới thực hiện phần nghĩa vụ của họ”.
Tại Điều 11 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự quy định:
“1. Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên nghĩa vụ liên đới nhưng không xác định hoặc xác định rõ phần nghĩa vụ của từng người, thì trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự có quyền yêu cầu một hoặc một số người bất kỳ có điều kiện thi hành án trong số những người phải thi hành án thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới.
2. Người đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán lại phần nghĩa vụ mà người đó đã thực hiện thay cho họ theo quy định của pháp luật dân sự.
3. Trường hợp người được thi hành án có ý kiến bằng văn bản đồng ý cho một hoặc một số người trong số những người phải thi hành nghĩa vụ liên đới không thi hành phần nghĩa vụ của họ thì phần nghĩa vụ không yêu cầu thi hành án được đình chỉ theo quy định”.
Theo quy định nêu trên, trường hợp bản án của Tòa án tuyên nghĩa vụ liên đới đã xác định rõ phần nghĩa vụ của từng người và một người trong số những người phải thi hành án đã thi hành xong phần nghĩa vụ của mình mà bản thân họ có điều kiện thi hành (có tài sản) thì Chấp hành viên vẫn có quyền yêu cầu họ phải thi hành phần nghĩa vụ thay cho người khác (người không có điều kiện án), trường hợp họ không tự nguyện thi hành thì vẫn bị cưỡng chế, kê biên tài sản... để thi hành án. Đây là nội dung còn mâu thuẫn và rất khó thực thi trên thực tiễn bởi vì:
Bản án có hiệu lực pháp luật đã xác định rõ nghĩa vụ dân sự của từng người và một người phải thi hành án đã chấp hành xong phần nghĩa vụ của mình mà Chấp hành viên lại ra quyết định cưỡng chế (kê biên) tài sản của họ để thi hành thay cho người khác, điều đó làm ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của người đã chấp hành xong phần nghĩa vụ của mình nhưng có điều kiện, đối với những vụ án hình sự, dân sự mà nghĩa vụ phải thi hành án lên đến hàng chục tỉ đồng thì họ bị ảnh hưởng lớn đến tài sản của mình do phải bồi thường thay cho những người khác.
Mặt khác nếu họ chấp hành và thực hiện quyết định của Chấp hành viên thì có nghĩa là bản án xác định nghĩa vụ của từng người không có giá trị đối với họ và Quyết định cưỡng chế của Chấp hành viên có giá trị pháp lý cao hơn bản án. Nếu họ chỉ chấp hành quyết định của bản án mà không chấp hành quyết định của Chấp hành viên thì bị coi là vi phạm pháp luật. Đây là điểu mâu thuẫn giữa bản án của Tòa án và quyết định cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân sự.
Chúng tôi xin nêu ra trường hợp cụ thể sau: Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2016/HTTS ngày 03/02/2016 của Toà án tỉnh Tuyên Quang xét xử đối với: Lê Đức Sơn, Nguyễn Phồn Vị, Bùi Đình Thuỳ, Nguyễn Anh Đông, Nguyễn Công Trình, Nguyễn Văn Trực, Lương văn Chung, Hoàng Văn Oanh về tội Tham ô tài sản, về trách nhiệm dân sự buộc các bị cáo liên đới bồi thường thiệt hại cho UBND thành phố Tuyên Quang tổng số 2.893.109.525 đồng. Trong đó Trình và Sơn liên đới bồi thường 53.715.695 đồng; Sơn phải bồi thường 44.761.289 đồng, Trình phải bồi thường 8.954.406 đồng (ngoài ra bản án còn tuyên Sơn phải liên đới với các bị cáo khác bồi thường cho UBND thành phố Tuyên Quang). Bị cáo Trình đã nộp xong phần dân sự của mình theo Bản án. Ngày 20/6/2017, Trình nộp thay Sơn 245.594 đồng; Ngày 12/9/2019, Trình nộp thay Sơn 44.515.395 đồng (cả lãi).
Trong vụ án trên, chỉ có bị cáo Trình có điều kiện thi hành, các bị cáo còn lại đều không có điều kiện thi hành.
Nếu theo quy định tại khoản 2 Điều 11 của Thông tư liên tịch số 11 thì “Người đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán lại phần nghĩa vụ mà người đó đã thực hiện thay cho họ theo quy định của pháp luật dân sự”. Điều này là mâu thuẫn với khoản 1 Điều 11 của Thông tư, tức là người đã dùng tài sản của mình để bồi thường thay cho người khác có nghĩa vụ liên đới bồi thường khi họ không có điều kiện thi hành có quyền yêu cầu người mà mình đã bồi thường thay cho họ (người không có tài sản) phải trả nợ khoản tiền người đó đã bỏ ra thanh toán thay cho người đó và có thể khởi kiện dân sự để đòi lại khoản tiền này nhưng họ đã được Cơ quan thi hành án dân sự xác định là không có điều kiện thi hành thì người đã bỏ tiền ra bồi thường cho những người liên đới không bao giờ đòi được số tiền mình đã bỏ ra bồi thường thay cho người khác, đây là bất cập trong công tác thi hành án dân sự của những bản án tuyên trách nhiệm liên đới bồi thường.
Từ dẫn chứng trên, xin đề xuất với các cơ quan tư pháp Trung ương cần sớm có hướng dẫn cụ thể việc thực hiện nghĩa vụ liên đới bồi thường trong các bản án hình sự, mặt khác đối với những vụ án đã tính được phần tiền bồi thường cụ thể của từng bị cáo thì không dùng từ “liên đới”.
Tạ Văn Thiển- P8, VKSND tỉnh