Giải
quyết
vấn
đề
dân
sự
trong
vụ
án
hình
sự
là
một
nguyên
tắc
cơ
bản
của
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự,
chi
phối
toàn
bộ
quá
trình
khởi
tố,
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
đối
với
vụ
án
có
vấn
đề
dân
sự
phát
sinh
khi
hành
vi
tội
phạm
xảy
ra.
Tại
Điều
30
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
quy
định:“Việc
giải
quyết
vấn
đề
dân
sự
trong
vụ
án
hình
sự
được
tiến
hành
cùng
với
việc
giải
quyết
vụ
án
hình
sự…”,
vì
vậy
ngoài
việc
phải
chứng
minh
và
giải
quyết
phần
trách
nhiệm
hình
sự,
các
Cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
còn
phải
chứng
minh
và
giải
quyết
phần
trách
nhiệm
dân
sự
trong
vụ
án.
Điều
này
không
những
có
tác
dụng
giải
quyết
triệt
để,
khách
quan
những
quan
hệ
dân
sự
phát
sinh
việc
thực
hiện
tội
phạm
mà
còn
góp
phần
làm
sáng
tỏ
những
nội
dung
thuộc
trách
nhiệm
hình
sự
của
người
phạm
tội
trong
việc
định
tội
danh,
định
khung
hình
phạt,
việc
áp
dụng
tình
tiết
giảm
nhẹ
trách
nhiệm
hình
sự.
Trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
án
“Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ”,
ngoài
xử
lý
hình
sự
thì
người
phạm
tội
còn
phải
chịu
trách
nhiệm
bồi
thường
thiệt
hại
cho
bị
hại
hoặc
những
người
tham
gia
tố
tụng
khác
như
người
có
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
liên
quan.
Căn
cứ
để
xem
xét
trách
nhiệm
bồi
thường
trong
các
vụ
án
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
được
xác
định
theo
trách
nhiệm
bồi
thường
thiệt
hại
ngoài
hợp
đồng,
được
quy
định
tại
Chương
XX
Bộ
luật
Dân
sự
năm
2015.
Như
vậy
những
vấn
đề
phát
sinh
bồi
thường
dân
sự
trong
vụ
án
Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
phải
căn
cứ
vào
các
Điều
584,
Điều
585,
Điều
586,
Điều
589,
Điều
590,
Điều
591
Bộ
luật
Dân
sự
để
giải
quyết.
Ngày
15/01/2021
Chính
phủ
đã
ban
hành
Nghị
định
số
03/2021/NĐ-CP
về
bảo
hiểm
bắt
buộc
trách
nhiệm
dân
sự
của
chủ
xe
cơ
giới
(sau
đây
gọi
tắt
là
Nghị
định
số
03),
thay
thế
Nghị
định
số
103/2008/NĐ-CP
ngày
16/9/2008
của
Chính
phủ
về
bảo
hiểm
bắt
buộc
trách
nhiệm
dân
sự
của
chủ
xe
cơ
giới
và
Nghị
định
số
214/2013/NĐ-CP
ngày
20/12/2013
của
Chính
phủ
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
điều
của
Nghị
định
số
103/2008/NĐ-CP
ngày
16/9/2008
của
Chính
phủ.
Theo
đó
chủ
xe
cơ
giới
bắt
buộc
phải
có
bảo
hiểm
trách
nhiệm
dân
sự.
Tại
Điều
14
của
Nghị
định
số
03
quy
định
về
bồi
thường
bảo
hiểm:
“Khi
tai
nạn
xảy
ra,
trong
phạm
vi
mức
trách
nhiệm
bảo
hiểm,
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
phải
bồi
thường
cho
người
được
bảo
hiểm
số
tiền
mà
người
được
bảo
hiểm
đã
bồi
thường
hoặc
sẽ
phải
bồi
thường
cho
người
bị
thiệt
hại.
Trong
vòng
3
ngày
làm
việc
kể
từ
ngày
nhận
được
thông
báo
của
bên
mua
bảo
hiểm,
người
được
Bảo
hiểm
về
vụ
tai
nạn,
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
phải
tạm
ứng
bồi
thường
đối
với
thiệt
hại
về
sức
khỏe,
tính
mạng,
cụ
thể:
Trường
hợp
đã
xác
định
được
vụ
tai
nạn
thuộc
phạm
vi
bồi
thường
thiệt
hại:
70%
mức
bồi
thường
bảo
hiểm
theo
quy
định/1
người/1
vụ
đối
với
trường
hợp
tử
vong…”.
Vấn
đề
đặt
ra
là
trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
án
“Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ”,
trong
trường
hợp
người
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
đã
mua
bảo
hiểm
trách
nhiệm
dân
sự,
thì
việc
xác
định
tư
cách
tham
gia
tố
tụng
của
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
phải
được
đặt
ra.
Ví
dụ:
Lý
Văn
T
đã
mua
bảo
hiểm
trách
nhiệm
dân
sự
cho
xe
mô
tô
của
T
với
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A.
Ngày
02/3/2021,
T
có
hành
vi
điều
khiển
xe
mô
tô
của
T
tham
gia
giao
thông
đường
bộ,
do
không
nhường
đường
cho
người
đi
bộ,
vi
phạm
khoản
4
Điều
11
Luật
Giao
thông
đường
bộ,
đã
gây
tai
nạn
với
người
đi
bộ
là
bà
Nguyễn
Thị
N,
hậu
quả
bà
N
chết.
T
bị
khởi
tố
điều
tra,
gia
đình
bị
hại
N
yêu
cầu
T
phải
có
trách
nhiệm
bồi
thường
thiệt
hại.
Trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
án
hình
sự
trên,
do
T
không
có
điều
kiện
về
kinh
tế
để
bồi
thường
cho
gia
đình
bị
hại
N,
nên
đã
yêu
cầu
Cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
phải
đưa
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A
vào
tham
gia
tố
tụng
trong
vụ
án
với
tư
cách
là
người
có
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
liên
quan
và
yêu
cầu
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A
bồi
thường
thiệt
hại
cho
gia
đình
bị
hại
N,
vì
sau
khi
gây
tai
nạn
T
đã
thông
báo
cho
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A.
Giải
quyết
yêu
cầu
của
T
có
hai
quan
điểm
như
sau:
-
Quan
điểm
1:
Cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
phải
chấp
nhận
yêu
của
của
bị
can
T,
đưa
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A
vào
tham
gia
tố
tụng
trong
vụ
án
với
tư
cách
là
người
có
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
liên
quan
và
xem
xét,
giải
quyết
yêu
cầu
bồi
thường
thiệt
hại
khi
xét
xử.
-
Quan
điểm
2:
Cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
không
chấp
nhận
yêu
của
của
bị
can
T
về
việc
đưa
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A
vào
tham
gia
tố
tụng
trong
vụ
án.
Trong
thực
tiễn
từ
trước
đến
nay
khi
giải
quyết
vụ
án
về
“Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ”,
các
Cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
không
đưa
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
vào
tham
gia
tố
tụng
với
tư
cách
là
người
có
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
liên
quan.
Việc
không
đưa
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
vào
tham
gia
tố
tụng
là
không
đảm
bảo
quyền
và
lợi
ích
của
chủ
phương
tiện;
quyền
và
nghĩa
vụ
của
các
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm.
Để
giải
quyết
triệt
để
vụ
án
Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ
như
đã
phân
tích
trên,
thì
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
trong
quá
trình
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
bắt
buộc
phải
đưa
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
vào
tham
gia
tố
tụng
với
tư
cách
là
người
có
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
liên
quan
như
quan
điểm
1.
Từ
ví
dụ
trên
cho
thấy:
Bị
can
T
đã
mua
bảo
hiểm
trách
nhiệm
dân
sự
cho
xe
mô
tô
của
T
với
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A.
Do
vậy
khi
T
gây
tai
nạn
làm
thiệt
hại
đến
tính
mạng
của
người
khác
thì
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A
phải
có
trách
nhiệm
bồi
thường,
chi
trả
tiền
cho
gia
đình
bị
hại
N
theo
khoản
1
Điều
5
Nghị
định
số
03,
quy
định
về
Phạm
vi
bồi
thường
thiệt
hại
“Thiệt
hại
ngoài
hợp
đồng
về
sức
khỏe,
tính
mạng
và
tài
sản
đối
với
bên
thứ
ba
do
xe
cơ
giới
gây
ra”.
Trừ
trường
hợp
quy
định
tại
Điều
13
của
Nghị
định
số
03,
quy
định
về
loại
trừ
trách
nhiệm
bảo
hiểm
“Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
không
bồi
thường
thiệt
hại
đối
với
các
trường
hợp
sau:
1.
Hành
động
cố
ý
gây
thiệt
hại
của
chủ
xe
cơ
giới,
người
lái
xe
hoặc
người
bị
thiệt
hại…”.
Căn
cứ
vào
mức
trách
nhiệm
bảo
hiểm
mà
bị
can
T
mua,
nếu
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A
chi
trả
không
đủ
các
chi
phí
hợp
lý
theo
yêu
cầu
của
gia
đình
bị
hại
N,
thì
bị
can
T
phải
có
trách
nhiệm
bồi
thường
phần
còn
thiếu
đó
cho
gia
đình
bị
hại
N.
Theo
quy
định
tại
Nghị
định
số
03
thì
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A
phải
thực
hiện
đúng
trình
tự,
thủ
tục,
thời
hạn
để
thực
hiện
việc
chi
trả
cho
gia
đình
bị
hại
N,
cụ
thể
trong
vòng
3
ngày
làm
việc
kể
từ
ngày
nhận
được
thông
báo
của
T,
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A
phải
tạm
ứng
70%
mức
bồi
thường
bảo
hiểm
cho
gia
đình
bị
hại
N…
Nếu
Doanh
nghiệp
không
thực
hiện
hoặc
thực
hiện
không
đúng
là
vi
phạm
quy
định
của
pháp
luật.
Tuy
nhiên
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
A
chỉ
thanh
toán
bồi
thường
cho
gia
đình
bị
hại
N
căn
cứ
theo
mức
trách
nhiệm
bảo
hiểm
mà
bị
can
T
mua,
được
xác
định
theo
Bảng
quy
định
trả
tiền
bồi
thường
thiệt
hại
về
sức
khỏe,
tính
mạng
theo
quy
định
tại
Phụ
lục
I
ban
hành
kèm
theo
Nghị
định
số
03.
Trường
hợp
Tòa
án
quyết
định
mức
bồi
thường
cao
hơn
quy
định
tại
Phụ
lục
I
ban
hành
kèm
theo
Nghị
định
số
03,
thì
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
có
quyền
kháng
cáo
phần
quyết
định
đó
để
bảo
vệ
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
Doanh
nghiệp.
Từ
những
phân
tích
trên,
đề
nghị
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
tỉnh
Tuyên
Quang
cần
có
chỉ
đạo,
thống
nhất
trong
việc
đưa
các
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
vào
tham
gia
tố
tụng
với
tư
cách
là
người
có
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
liên
quan
đối
với
các
vụ
án
Vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ,
để
việc
giải
quyết
vụ
án
đảm
bảo
đúng
quy
định
của
pháp
luật,
đảm
bảo
quyền
lợi
của
người
tham
gia
bảo
hiểm,
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
Doanh
nhiệp
bảo
hiểm.
Nguyễn
Thúy
Vân
-
VKSND
tỉnh