Trong
tiến
trình
thực
hiện
cải
cách
tư
pháp
theo
Nghị
quyết
số
49-NQ/TW
ngày
2.6.2005
của
Bộ
Chính
trị
về
Chiến
lược
cải
cách
tư
pháp
đến
năm
2020,
vấn
đề
xây
dựng
Nhà
nước
pháp
quyền
XHCN
Việt
Nam,
hoàn
thiện
các
thủ
tục
tố
tụng
tư
pháp,
bảo
đảm
tính
đồng
bộ,
dân
chủ,
công
khai,
minh
bạch,
tôn
trọng
và
bảo
vệ
quyền
con
người
là
một
đòi
hỏi
khách
quan
của
xã
hội,
phù
hợp
với
yêu
cầu
và
xu
thế
phát
triển
của
thời
đại;
trong
đó
có
trách
nhiệm
nặng
nề
của
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
được
Hiến
pháp
năm
2013
quy
định.
Qua
nghiên
cứu
pháp
luật
quốc
tế
và
pháp
luật
Việt
Nam
quy
định
về
bảo
vệ
quyền
con
người,
Tác
giả
bài
viết
xin
trao
đổi
một
số
vấn
đề
về
Quyền
con
người
trong
công
tác
kiểm
sát
việc
tạm
giữ,
tạm
giam
như
sau:
Thứ
nhất:
Chế
định
pháp
lý
về
quyền
con
người
được
ghi
nhận
trong
Tuyên
ngôn
thế
giới
về
nhân
quyền
năm
1948;
Công
ước
quốc
tế
về
các
quyền
dân
sự,
chính
trị
(ICCPR)
được
Đại
hội
đồng
Liên
Hợp
Quốc
thông
qua
bằng
Nghị
quyết
2200A
(XXI)
ngày
16/12/1966,
có
hiệu
lực
ngày
23/3/1976
theo
Điều
49
-
Việt
Nam
gia
nhập
ngày
24/9/1982;
trong
đó
quy
định
về
Quyền
bất
khả
xâm
phạm
về
thân
thể
(Điều
7);
Quyền
được
bảo
hộ
về
tính
mạng,
sức
khoẻ,
danh
dự
và
nhân
phẩm
(Điều
9,
10);
Quyền
hưởng
tự
do
và
an
ninh
cá
nhân
(Điều
14);
Quyền
được
pháp
luật
bảo
hộ
chống
lại
những
can
thiệp
hoặc
xúc
phạm
một
cách
độc
đoán
hoặc
bất
hợp
pháp
đến
đời
sống
riêng
tư,
gia
đình,
nhà
ở,
thư
tín,
danh
dự
và
uy
tín
(Điều
17)…Pháp
luật
Việt
Nam
đã
cụ
thể
hoá
các
quyền
cơ
bản
của
con
người
theo
các
chuẩn
mực
quốc
tế
về
quyền
con
người,
phù
hợp
với
yêu
cầu
thực
tiễn
của
đất
nước
trong
từng
giai
đoạn
lịch
sử
phát
triển
đấu
tranh
xây
dựng
và
bảo
vệ
Tổ
Quốc
thông
qua
các
bản
Hiến
pháp
năm
1946
(Điều
11),
Hiến
pháp
năm
1959
(Điều
27),
Hiến
pháp
năm
1992
(Điều
71),
Hiến
pháp
năm
2013
(Điều
20);
Bộ
luật
tố
tụng
hình
sự
năm
2003
quy
định
về
bảo
vệ
quyền
con
người
liên
quan
đến
việc
giam
giữ
hạn
chế
quyền
con
người
(từ
Điều
5
đến
Điều
11)
các
biện
pháp
ngăn
chặn
gồm:
Bắt
tạm
giam
(điều
80);
bắt
khẩn
cấp
(điều
81);
bắt
quả
tang,
truy
nã
(Điều
82);
tạm
giữ
(Điều
86);
tạm
giam
(Điều
88);
cấm
đi
khỏi
nơi
cư
trú
(Điều
91);
bảo
lĩnh
(Điều
92);
đặt
tiền
hoặc
tài
sản
có
giá
trị
để
bảo
đảm
(Điều
93)….
Nội
dung
của
việc
tạm
giữ,
tạm
giam
được
thực
hiện
theo
Quy
chế
về
tạm
giữ,
tạm
giam
ban
hành
kèm
theo
Nghị
định
số
89/1998/NĐ-CP
ngày
7.11.1998
(được
sửa
đổi,
bổ
sung
bởi
Nghị
định
số
98/2002/NĐ-CP
ngày
27.11.2002
và
Nghị
định
số
09/2011/NĐ-CP
ngày
25/11/2011)
góp
phần
bảo
đảm
an
toàn
về
tính
mạng,
sức
khỏe,
sự
tôn
trọng
về
nhân
phẩm,
danh
dự,
đồng
thời
bảo
vệ
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
bị
tạm
giữ,
tạm
giam
theo
pháp
luật.
Thứ
hai:
Việc
bắt,
tạm
giữ,
tạm
giam
là
biện
pháp
ngăn
chặn
nghiêm
khắc
nhất
được
quy
định
trong
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự,
do
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng,
người
có
thẩm
quyền
áp
dụng
đối
với
người
có
hành
vi
phạm
tội
nhằm
mục
đích
hạn
chế
một
số
quyền
tự
do
cá
nhân,
cách
ly
họ
khỏi
đời
sống
xã
hội
một
thời
gian
nhất
định,
ngăn
chặn
họ
tiếp
tục
phạm
tội
mới
hoặc
gây
khó
khăn,
cản
trở
hoạt
động
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
và
bảo
đảm
thi
hành
án.
Tuy
nhiên,
theo
nguyên
tắc
suy
đoán
vô
tội,
người
bị
tình
nghi
(bị
buộc
tội)
được
coi
là
không
có
tội
cho
đến
khi
được
chứng
minh
theo
trình
tự
luật
định
và
có
bản
án
kết
tội
của
Tòa
án
đã
có
hiệu
lực
pháp
luật
(khoản
1
Điều
31
Hiến
pháp
năm
2013),
do
đó
những
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
họ
mà
pháp
luật
không
hạn
chế
hoặc
tước
bỏ
phải
được
tôn
trọng.
Pháp
luật
quy
định
cơ
quan
nhà
nước,
tổ
chức
xã
hội…
và
công
dân
đều
bình
đẳng
trước
pháp
luật
nhưng
thực
tiễn
cho
thấy,
mối
quan
hệ
tố
tụng
là
không
bình
đẳng
giữa
một
bên
là
cá
nhân
(người
bị
giam
giữ)
với
một
bên
là
Nhà
nước
(cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng);
một
bên
có
quyền
áp
dụng
hoặc
không
áp
dụng
các
biện
pháp
ngăn
chặn
(hạn
chế
quyền
công
dân)
còn
bên
kia
phải
có
nghĩa
vụ
chấp
hành;
một
bên
là
người
có
kiến
thức
pháp
luật,
được
đào
tạo
cơ
bản
để
áp
dụng
pháp
luật
còn
bên
kia
hiểu
biết
pháp
luật
còn
hạn
chế
thậm
chí
không
hiểu
biết
gì
về
luật
pháp.
Vì
thế
trong
điều
kiện
tâm
lý,
hoàn
cảnh
đang
bị
giam
giữ
(bị
hạn
chế
quyền),
người
bị
tình
nghi
rất
dễ
buông
xuôi,
khai
nhận
những
việc
mình
không
làm,
hoặc
những
hành
vi
không
đúng
với
thực
tế,
diễn
biến
của
vụ
án;
họ
sẵn
sàng
nghe
theo,
nói
theo
và
khai
nhận
theo
hướng
dẫn
hoặc
ý
chí
chủ
quan
của
người
tiến
hành
tố
tụng
để
mong
được
cải
thiện
tình
trạng
bị
giam
giữ
của
bản
thân;
đó
cũng
là
giai
đoạn
người
bị
bắt
tạm
giữ,
tạm
giam
bị
áp
lực
về
tâm
lý
trước
những
người
tiến
hành
tố
tụng
quyền
uy
cũng
như
guồng
máy
của
các
cơ
quan
tố
tụng;
chính
vì
thế
họ
dễ
bị
tác
động
do
các
hành
vi
trái
pháp
luật
(dụ
cung,
mớm
cung,
bức
cung,
nhục
hình…)
của
người
tiến
hành
tố
tụng.
Đây
cũng
là
một
trong
những
nguyên
nhân
sâu
sa
của
những
vi
phạm
pháp
luật
dẫn
đến
oan,
sai
trong
thời
gian
qua.
Thứ
ba:
Hoạt
động
kiểm
sát
việc
bắt,
tạm
giữ,
tạm
giam:
Theo
Luật
Tổ
chức
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
năm
2014
có
hiệu
lực
từ
01/6/2015
quy
định
chức
năng,
nhiệm
vụ
của
ngành
(từ
Điều
2
đến
Điều
4);
quy
định
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
cụ
thể
của
công
tác
kiểm
sát
việc
tạm
giữ,
tạm
giam
(từ
Điều
22
đến
Điều
24)
và
Quyết
định
số
35/QĐ-VKSTC-V4
ngày
29/01/2013
của
Viện
trưởng
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao
ban
hành
kèm
theo
Quy
chế
công
tác
kiểm
sát
việc
tạm
giữ,
tạm
giam
và
thi
hành
án
hình
sự
thì
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
thực
hiện
công
tác
kiểm
sát
việc
tạm
giữ,
tạm
giam
ngay
từ
giai
đoạn
bắt
đầu
của
quá
trình
tố
tụng,
kể
từ
khi
phát
sinh
việc
bắt,
tạm
giữ,
tạm
giam
đến
khi
kết
thúc
việc
giam,
giữ;
nguyên
tắc
suy
đoán
vô
tội
được
đặt
ra
và
phải
được
kiểm
soát
chặt
chẽ,
bởi
lẽ
trên
thực
tế,
mọi
vi
phạm
như
tình
trạng
chết,
mớm
cung,
dụ
cung,
bức
cung,
nhục
hình…
đều
xảy
ra
trong
thời
điểm
bắt
tạm
giữ,
tạm
giam;
Trách
nhiệm
của
Viện
kiểm
sát
phải
bảo
đảm
bất
cứ
trường
hợp
nào
bị
bắt,
tạm
giữ,
tạm
giam
đều
có
đầy
đủ
hai
yếu
tố
đó
là:
Đúng
người,
đúng
hành
vi
và
phải
tuân
theo
đúng
trình
tự
thủ
tục
của
pháp
luật;
hay
nói
cách
khác
đó
là
hai
yếu
tố
“cần”
và
“đủ”
trong
khâu
“đầu
vào”
của
hoạt
động
giam
giữ.
Kiểm
sát
chặt
chẽ
việc
trích
xuất
lấy
lời
khai
cũng
như
quy
trình
dẫn
giải
người
bị
giam
giữ
từ
nơi
giam
giữ
đến
nơi
lấy
lời
khai,
thủ
tục
kiểm
tra
sức
khoẻ….
để
tránh
việc
người
bị
bắt,
tạm
giữ,
tạm
giam
bị
xâm
hại
về
thể
chất,
bị
uy
hiếp
về
tinh
thần;
đồng
thời
kiểm
sát
thật
sát
sao
việc
thực
hiện
các
quy
định
của
pháp
luật
trong
việc
phân
loại
giam
giữ,
chế
độ
của
người
bị
giam
giữ
được
hưởng
và
các
quyền
công
dân
không
bị
pháp
luật
hạn
chế
hoặc
tước
bỏ;
trực
tiếp
gặp,
nghe,
hỏi
ý
kiến
đánh
giá,
nhận
xét,
quan
điểm
và
những
tâm
tư
tình
cảm,
nguyện
vọng
của
người
bị
bắt,
tạm
giữ,
tạm
giam
trong
việc
thực
hiện
các
quy
định
về
giam
giữ
của
Cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng,
người
tiến
hành
tố
tụng
và
cơ
quan
trực
tiếp
giam
giữ.
Ngoài
chức
năng
thực
hành
quyền
công
tố,
kiểm
sát
hoạt
động
tư
pháp,
Viện
kiểm
sát
còn
có
nhiệm
vụ
bảo
vệ
Hiến
pháp
và
pháp
luật,
bảo
vệ
quyền
con
người,
quyền
công
dân,
bảo
vệ
chế
độ
xã
hội
chủ
nghĩa,
bảo
vệ
lợi
ích
của
Nhà
nước,
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
tổ
chức,
cá
nhân,
góp
phần
bảo
đảm
pháp
luật
được
chấp
hành
nghiêm
chỉnh
và
thống
nhất
(từ
Điều
2
đến
Điều
4
Luật
Tổ
chức
VKSND
năm
2014),
qua
công
tác
kiểm
sát
việc
bắt,
tạm
giữ,
tạm
giam,
Viện
kiểm
sát
kịp
thời
phát
hiện
vi
phạm,
thiếu
sót
trong
hoạt
động
bắt,
giam
giữ
để
kháng
nghị,
kiến
nghị,
yêu
cầu
sửa
chữa
khắc
phục
và
chấm
dứt
vi
phạm,
xử
lý
người
vi
phạm,
không
để
xảy
ra
tình
trạng
bắt,
giam
giữ
không
có
căn
cứ
trái
pháp
luật
cũng
như
lạm
dụng
việc
bắt,
tạm
giữ
hình
sự
sau
đó
phải
chuyển
xử
lý
hành
chính,
bảo
vệ
ngày
càng
tốt
hơn
quyền
con
người
trong
công
tác
bắt,
tạm
giữ,
tạm
giam,
phòng
chống
oan
sai
trong
hoạt
động
tố
tụng
hình
sự.
Hiện
nay,
dự
thảo
Luật
Tạm
giữ,
tạm
giam
gồm
11
chương,
87
điều
(Chương
VIII
-
Kiểm
sát
hoạt
động
giam,
giữ,
từ
Điều
55
đến
Điều
57,
quy
định
về
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
trong
kiểm
sát
hoạt
động
giam,
giữ;
quyền
yêu
cầu,
kháng
nghị,
kiến
nghị
trong
hoạt
động
giam,
giữ)
đang
được
nhân
dân
tham
gia
đóng
góp
rộng
rãi
và
được
Quốc
Hội
xem
xét
cho
ý
kiến.
Theo
quan
điểm
của
Tác
giả
bài
viết
thì
nội
dung
dự
thảo
cần
tập
trung
giải
quyết
tốt
các
vấn
đề
thực
tiễn
mang
tính
cấp
thiết,
trực
tiếp
liên
quan
đến
quyền
con
người
cũng
như
công
tác
kiểm
sát
việc
tạm
giữ,
tạm
giam
theo
hướng
như
sau:
Một
là:
Chỉ
hạn
chế
quyền
tự
do
đi
lại,
tiếp
xúc,
gặp
gỡ,
trao
đổi
thông
tin,
liên
lạc
của
người
bị
tạm
giữ,
tạm
giam
(sau
đây
gọi
tắt
là
người
bị
giam
giữ)
với
người
khác
để
bảo
đảm
bí
mật
điều
tra,
tránh
việc
thông
cung,
tiêu
hủy
hoặc
ngụy
tạo
chứng
cứ,
giúp
cơ
quan,
người
tiến
hành
tố
tụng
nhanh
chóng
xác
định
sự
thật
khách
quan
của
vụ
án,
không
bỏ
lọt
tội
phạm
hoặc
làm
oan
người
vô
tội.
Do
đó
không
hạn
chế
các
quyền
công
dân
khác.
Hai
là:
Bảo
đảm
an
toàn
trong
việc
tạm
giữ,
tạm
giam
nhằm
ngăn
chặn
việc
người
đó
bỏ
trốn
gây
khó
khăn,
cản
trở
cho
công
tác
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử,
thi
hành
án,
không
để
vụ
án
kéo
dài
gây
bức
xúc
dư
luận.
Vì
thế
phải
nhanh
chóng
thay
đổi,
hủy
bỏ
biện
pháp
tạm
giữ,
tạm
giam
khi
điều
kiện
trở
ngại
đó
không
còn
nữa.
Ba
là:
Bảo
đảm
hoạt
động
giam
giữ
của
cơ
quan,
người
tiến
hành
tố
tụng;
cơ
quan,
người
trực
tiếp
giam
giữ
phải
tuân
theo
đúng
quy
định
của
pháp
luật
như:
Về
thẩm
quyền,
trình
tự,
thủ
tục,
thời
hạn
giam
giữ;
Các
chế
độ
về
ăn,
mặc,
ở,
y
tế,
sinh
hoạt,
học
tập,
giáo
dục
cảm
hóa…Tạo
mọi
điều
kiện
thuận
lợi
để
người
bị
giam
giữ
thực
hiện
các
quyền
công
dân
khác
mà
không
bị
pháp
luật
hạn
chế
hoặc
tước
bỏ,
nhất
là
quyền
khiếu
nại
tố
cáo
những
hành
vi,
quyết
định
trái
pháp
luật…
trong
quá
trình
họ
bị
giam
giữ.
Bốn
là:
Kịp
thời
phát
hiện,
ngăn
chặn
những
hành
vi
vi
phạm
của
những
người
cùng
bị
tạm
giữ,
tạm
giam
với
nhau;
của
cơ
quan,
người
tiến
hành
tố
tụng
và
cơ
quan,
người
trực
tiếp
làm
công
tác
giam
giữ
với
người
bị
giam
giữ:
-
Không
để
xảy
ra
tình
trạng
cơ
quan,
người
tiến
hành
tố
tụng
chậm
giao
nhận
lệnh,
quyết
định
về
giam
giữ
cho
người
bị
giam
giữ
cũng
như
cơ
quan
trực
tiếp
giam
giữ
(đã
hết
thời
hạn
giam
giữ
nhưng
người
bị
giam
giữ
cũng
như
Cơ
quan
trực
tiếp
giam
giữ
chưa
nhận
được
lệnh,
quyết
định
tố
tụng
về
giam
giữ
thay
thế).
Trong
trường
hợp
này
cần
kiên
quyết
trả
tự
do
ngay
cho
người
bị
giam
giữ,
không
loại
trừ
bất
cứ
lý
do
nào.
-
Thiết
kế,
bố
trí
phòng
hỏi
cung
phải
có
vách
kính
hoặc
rào
sắt
ngăn
giữa
Người
tiến
hành
tố
tụng
với
Người
bị
giam
giữ
tránh
việc
tiếp
xúc
trực
tiếp
khi
thẩm
vấn,
ghi
lời
khai;
đồng
thời
tăng
cường
sự
có
mặt
của
Kiểm
sát
viên,
Luật
sư,
người
bào
chữa…
và
cảnh
sát
bảo
vệ
dẫn
giải
khi
thẩm
vấn,
ghi
lời
khai
theo
quy
định.
Việc
xây
dựng,
ban
hành
Luật
tạm
giữ,
tạm
giam
thể
hiện
tính
nhất
quán
của
Đảng,
Nhà
nước
và
Nhân
dân
ta
về
nhân
quyền
nói
chung
cũng
như
quyền
và
nghĩa
vụ
cơ
bản
của
công
dân
nói
riêng,
đáp
ứng
yêu
cầu
công
tác
đấu
tranh
phòng,
chống
tội
phạm
với
mục
tiêu
hoàn
thiện
hệ
thống
pháp
luật,
xây
dựng
Nhà
nước
pháp
quyền
xã
hội
chủ
nghĩa
Việt
Nam
của
dân,
do
dân,
vì
dân
cũng
như
xu
hướng
hội
nhập
quốc
tế
hiện
nay.
Lưu
Tiến
Độ