Tội
Chống
người
thi
hành
công
vụ,
quy
định
tại
Điều
330
Bộ
luật
Hình
sự
năm
2015
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2017)
và
tội
Cố
ý
gây
thương
tích,
với
tình
tiết
“đối
với
người
đang
thi
hành
công
vụ
hoặc
vì
lý
do
công
vụ
của
nạn
nhân”,
quy
định
tại
điểm
k,
khoản
1,
Điều
134
Bộ
luật
Hình
sự
đều
có
đối
tượng
tác
động
đến
người
đang
thi
hành
công
vụ;
về
hình
phạt
trong
cấu
thành
cơ
bản
tại
khoản
1
Điều
330
và
khoản
1
Điều
134
là
giống
nhau
“phạt
cải
tạo
không
giam
giữ
đến
03
năm
hoặc
phạt
tù
từ 06
tháng đến 03
năm”.
Từ
đó
dẫn
đến
nhiều
quan
điểm
khác
nhau
trong
xác
định
tội
danh
đối
với
hành
vi
nêu
trên.
Trong
phạm
vi
bài
viết,
tác
giả
xin
nêu
tóm
tắt
nội
dung
một
vụ
án
cụ
thể,
đang
có
hai
quan
điểm
khác
nhau
trong
việc
định
tội
danh
để
có
cơ
sở
phân
tích,
đánh
giá.
Tóm
tắt
nội
dung
vụ
án:
Khoảng
10
giờ
ngày
15/02/2024,
N.T.T
điều
khiển
xe
mô
tô
chở
T.X.H
đi
từ
huyện
C.H
đến
địa
bàn
huyện
N.H
để
chơi
hội.
Khi
đi
đến
địa
phận
thôn
Y,
xã
T,
huyện
NH
thì
T
nhận
được
thông
tin
Tổ
công
tác
của
Đội
CSGT
huyện
NH
đang
thực
hiện
nhiệm
vụ
tại
đoạn
đường
phía
trước,
do
chưa
có
Giấy
phép
lái
xe
và
không
đội
mũ
bảo
hiểm
nên
T
và
H
thống
nhất
sẽ
“thông
chốt”,
tức
là
nếu
có
hiệu
lệnh
dừng
xe
để
kiểm
tra
của
Cảnh
sát
giao
thông
thì
không
chấp
hành
mà
phóng
xe
mô
tô
vượt
qua.
Khi
đi
đến
vị
trí
cách
chốt
giao
thông
khoảng
50m,
T
nhìn
thấy
hiệu
lệnh
dừng
xe
của
ông
N.T.C
(là
cán
bộ
đội
CSGT
huyện
H)
nhưng
T
không
giảm
tốc
độ
mà
tăng
ga
phóng
xe
vượt
qua
chốt,
lúc
này
ông
N.T.C
đi
bộ
ra
giữa
đường
để
tiếp
tục
ra
hiệu
lệnh
dừng
xe
nhưng
T
không
chấp
hành
mà
điều
khiển
xe
với
tốc
độ
cao,
thấy
vậy
N.T.C
nhảy
lùi
về
phía
sau
để
tránh
thì
xe
mô
tô
do
T
điều
khiển
đâm
trúng
bàn
chân
trái
ông
N.T.C
gây
thương
tích;
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
của
N.T.C
tại
thời
điểm
giám
định
là
04%
(Bốn
phần
trăm).
Trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
việc,
hiện
nay
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
huyện
H
có
02
quan
điểm
khác
nhau
về
xác
định
tội
danh
đối
với
N.T.T
như
sau:
Quan
điểm
thứ
nhất:
Hành
vi
của
N.T.T
đã
phạm
tội
Chống
người
thi
hành
công
vụ,
theo
quy
định
tại
khoản
1
Điều
330
Bộ
luật
Hình
sự,
do
hành
vi
điều
khiển
xe
mô
tô
với
tốc
độ
cao
phóng
qua
chốt
kiểm
tra,
không
chấp
hành
hiệu
lệnh
dừng
xe,
đâm
xe
vào
ông
N.T.C
gây
thương
tích
đã
làm
cản
trở
việc
thực
thi
công
vụ
của
ông
N.T.C.
Hành
vi
của
T
đã
thoả
mãn
về
mặt
khách
thể,
khách
quan,
chủ
quan
của
tội
Chống
người
thi
hành
công
vụ;
trong
đó
yếu
tố
cơ
bản
để
phân
biệt
hai
tội
danh
này
là
khách
thể
bị xâm
phạm,
khách
thể
của
Chống
người
thi
hành
công
vụ
là
xâm
phạm
đến
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ
của
người
đang
thi
hành
công
vụ,
từ
đó
xâm
phạm
đến
hoạt
động
của
Nhà
nước
về
quản
lý
hành
chính.
Hành
vi
của
T
thể
hiện
thái
độ
coi
thường
pháp
luật,
bất
chấp
nguy
hiểm
về
tính
mạng,
sức
khỏe
của
người
thi
hành
công
vụ,
gây
mất
ổn
định
trật
tự
xã
hội.
Quan
điểm
thứ
hai:
Hành
vi
của
N.T.T
đã
phạm
vào
tội
Cố
ý
gây
thương
tích,
theo
quy
định
tại
điểm
k,
khoản
1,
Điều
134
Bộ
luật
Hình
sự.
T
điều
khiển
xe
mô
tô
với
tốc
độ
cao
khi
nhìn
thấy
ông
N.T.C
ra
hiệu
lệnh
dừng
xe,
T
buộc
phải
nhận
thức
được
hành
vi
này
sẽ
gây
nguy
hiểm
đến
tính
mạng,
sức
khoẻ
của
ông
N.T.C
và
xâm
phạm
đến
trật
tự
công
cộng,
cản
trở
hoạt
động
của
người
đang
thi
hành
công
vụ;
hậu
quả
đã
xảy
ra,
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
của
C
là
04%,
do
đó
xử
lý
T
về
tội
Cố
ý
gây
thương
tích,
theo
quy
định
tại
điểm
k,
khoản
1,
Điều
134
Bộ
luật
Hình
sự
là
phù
hợp.
Tác
giả
đồng
tình
với
quan
điểm
thứ
hai,
hành
vi
của
N.T.T
đã
phạm
vào
tội
Cố
ý
gây
thương
tích,
theo
quy
định
tại
điểm
k,
khoản
1,
Điều
134
Bộ
luật
Hình
sự,
bởi
lẽ:
tội
Cố
ý
gây
thương
tích
có
khách
thể
là
quyền
bất
khả
xâm
phạm
về
thân
thể
của
con
người
được
pháp
luật
hình
sự
bảo
vệ,
hậu
quả
thương
tích
đã
xảy
ra
(có
tỷ
lệ
tổn
tương
cơ
thể
ít
nhất
từ
01%
trở
lên).
Đối
với
tội
Chống
người
thi
hành
công
vụ,
hành
vi
dùng
vũ
lực
không
đòi
hỏi
phải
gây
thương
tích
hoặc
làm
tổn
hại
đáng
kể
đến
sức
khoẻ
của
người
thi
hành
công
vụ,
đe
doạ
dùng
vũ
lực
hoặc
dùng
thủ
đoạn
khác
cản
trở
người
thi
hành
công
vụ,
hậu
quả
xảy
ra
là
người
thi
hành
công
vụ
không
thực
hiện
được
công
vụ
được
giao;
khi
có
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
thì
tội
phạm
đã
được
chuyển
hoá
sang
tội
danh
tương
ứng
với
mức
độ
tổn
thương
cơ
thể
do
hành
vi
gây
ra.
Tuy
nhiên
vấn
đề
đặt
ra
việc
xử
lý
hình
sự
đối
với
T
về
tội
Cố
ý
gây
thương
tích,
theo
quy
định
tại
điểm
k,
khoản
1,
Điều
134
Bộ
luật
Hình
sự
chỉ
được
khởi
tố
khi
có
yêu
cầu
của
người
bị
hại,
nếu
người
bị
hại
không
yêu
cầu
thì
không
có
căn
cứ
để
khởi
tố
hoặc
người
bị
hại
đã
yêu
cầu
khởi
tố
nhưng
sau
đó
rút
đơn,
vụ
án
bị
đình
chỉ
thì
việc
thực
hiện
nhiệm
vụ
của
người
thi
hành
công
vụ
và
cao
hơn
là
hoạt
động
của
Nhà
nước
về
quản
lý
xã
hội,
quản
lý
nhà
nước
không
được
bảo
vệ,
tính
răn
đe
buộc
công
dân
phải
có
nghĩa
vụ
tuân
thủ
đầy
đủ
quy
định
của
pháp
luật
sẽ
không
thực
sự
hiệu
quả.
Hiện
nay
chưa
có
văn
bản
hướng
dẫn
cụ
thể
của
liên
ngành
Trung
ương
về
nội
dung
này.
Trước
đó,
Hội
đồng
thẩm
phán
Toà
án
nhân
dân
tối
cao
đã
ban
hành
Nghị
quyết
số
04-HĐTPTANDTC/NQ
ngày
29/11/1986
hướng
dẫn
áp
dụng
một
số
quy
định
trong
phần
các
tội
phạm
của
Bộ
luật
Hình
sự
năm
1985, trong
đó
có
tội
Cố
ý
gây
thương
tích
theo
quy
định
tại
điều
109
Bộ
luật
Hình
sự
năm
1985.
Tại
điểm
5
chương
6
của
Nghị
quyết
quy
định:
“Nếu
người
phạm
tội
giết
người
thi
hành
công
vụ,
thì
họ
bị
xử
lý
về
tội
giết
người
theo
Điều
101
khoản
1
điểm
c;
nếu
họ
gây
thương
tích
hoặc
gây
tổn
hại
cho
sức
khỏe
của
người
thi
hành
công
vụ,
thì
tùy
tình
tiết
của
vụ
án,
họ
bị
xử
lý
theo
Điều
109
khoản
2
điểm
b
(gây
thương
tích
hoặc
tổn
hại
cho
sức
khỏe)
hoặc
theo
Điều
109
khoản
3
(gây
cố
tật
nặng
hoặc
dẫn
đến
chết
người)”.
Để
có
sự
thống
nhất
và
tạo
định
hướng
đúng
trong
xử
lý
tội
phạm,
đề
nghị
Liên
ngành
Trung
ương
sớm
có
hướng
dẫn
cụ
thể
để
xác
định
tội
danh
Chống
người
thi
hành
công
vụ,
quy
định
tại
Điều
330
Bộ
luật
Hình
sự
và
tội
Cố
ý
gây
thương
tích,
với
tình
tiết
“đối
với
người
đang
thi
hành
công
vụ
hoặc
vì
lý
do
công
vụ
của
nạn
nhân”,
quy
định
tại
điểm
k,
khoản
1,
Điều
134
Bộ
luật
Hình
sự.
Nguyễn
Kiên
Cường
VKSND
huyện
Na
Hang