Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu - Trao đổi nghiệp vụ » Nghiên cứu - Trao đổi

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG - Đã xem: 4928

   Một số khó khăn, vướng mắc trong công tác tha tù trước thời hạn có điều kiện


Thứ năm - 17/10/2019 15:40
Tha tù trước thời hạn có điều kiện là một chế định mới được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta đối với các phạm nhân có thái độ cải tạo tốt được rút ngắn thời gian chấp hành hình phạt tù có cơ hội sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Theo quy định tại Điều 66 của Bộ luật hình sự năm 2015, tha tù trước thời hạn có điều kiện được áp dụng cho người đang chấp hành án phạt tù thuộc trường hợp phạm tội lần đầu, quá trình cải tạo có nhiều tiến bộ, đã chấp hành án được ít nhất là một phần hai mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn, đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật thì được xem xét, đề nghị tha tù trước thời hạn. Việc tha tù trước thời hạn có điều kiện chính là việc người bị kết án phạt tù được chuyển hình thức chấp hành hình phạt từ hình thức chấp hành án tại các cơ sở giam giữ sang chấp hành án tại cộng đồng.

Để thực hiện chế định mới về Tha tù trước thời hạn có điều kiện, trong thời gian qua, các Bộ, Ngành Trung ương trong phạm vi, chức năng, nhiệm vụ của mình đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện như: Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/02/2018 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định phối hợp thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015 về tha tù trước thời hạn có điều kiện; Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng Điều 66, Điều 106 của BLHS năm 2015 về tha tù trước thời hạn có điều kiện; Thông tư số 12/2018/TT-BCA ngày 07/5/2018 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định thực hiện tha tù trước thời hạn có điều kiện trong Công an nhân dân; một số văn bản hướng dẫn thi hành... tạo điều kiện cho các cơ quan có chức năng nhiệm vụ áp dụng thực hiện công tác tha tù trước thời hạn có điều kiện đảm bảo đúng chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên qua hơn một năm thực hiện công tác kiểm sát việc tha tù trước thời hạn có điều kiện chúng tôi thấy thực tiễn áp dụng các quy định này còn có một số khó khăn vướng mắc như sau:
 
Thứ nhất: Về việc thực hiện xong hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, án phí trong xét tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Đối với phạm nhân chưa chấp hành xong hình phạt tiền do thuộc trường hợp nghĩa vụ bồi thường là cấp dưỡng cho người già là cha mẹ của bị hại do không có định lượng về thời gian nên khó xác định là việc đã thực hiện nghĩa vụ thế nào?
Hoặc bản án tuyên về phần bồi thường dân sự được tách ra bằng vụ kiện khác khi có yêu cầu. Hồ sơ không thể hiện việc đã bồi thường hay chưa bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bản án có hiệu lực pháp luật có trong hồ sơ phạm nhân cũng không thể hiện, thì cơ quan có thẩm quyền đề nghị tha tù có được thực hiện việc đề nghị xét tha tù trước thời hạn có điều kiện không? việc áp dụng tình tiết đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí (điểm d khoản 1 Điều 66 Bộ luật hình) được áp dụng như thế nào thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Trên thực tiễn khi phạm nhân đủ các điều kiện khác nhưng bản án tuyên về phần dân sự được tách ra bằng vụ kiện khác có đơn vị không lập hồ sơ đề nghị xét tha tù cho phạm nhân vì cho rằng người đó còn thiếu điều kiện theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 66 Bộ luật hình sự; nhưng cũng có đơn vị lập hồ sơ đề nghị Hội đồng xét tha tù cho phạm nhân và được Hội đồng chấp nhận. Đây cũng là nội dung còn vướng mắc chưa có sự thống nhất giữa các đơn vị đề nghị xét tha tù cho các phạm nhân.

Thứ hai: Về nội dung quy định về xét tha tù trước thời hạn có điều kiện “bảo đảm không ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội”.
Tại khoản 7 Điều 2 Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao quy định: “Khi xét tha tù trước thời hạn có điều kiện phải xem xét thận trọng, chặt chẽ để đảm bảo việc tha tù trước thời hạn có điều kiện không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là đối với các trường hợp phạm tội về ma túy, tham nhũng, phạm tội có tổ chức, chủ mưu, cầm đầu…, phạm nhân có tiền sử nghiện ma túy có ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội…”.
Trên thực tiễn, việc lập hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện theo quy định tại Điều 66 Bộ luật hình sự năm 2015 gặp một số khó khăn do một số địa phương cấp xã không thống nhất tha tù trước thời hạn với lý do không bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội theo khoản 4 Điều 2 Thông tư số 12/2018/TT-BCA ngày 07/5/2018 của Bộ Công an quy định việc tha tù trước thời hạn có điều kiện trong Công an nhân dân, mặc dù các phạm nhân này đáp ứng các điều kiện khác theo quy định.
Chưa quy định cụ thể cơ quan có trách nhiệm xác minh, xác định việc tha tù trước thời hạn có điều kiện không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương theo khoản 7, Điều 2, Nghị quyết số 01 nêu trên, nên trong quá trình thực hiện giữa các địa phương còn chưa được thống nhất như có địa phương giao cho Công an cấp xã, có địa phương giao cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, có địa phương lại giao cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh xác minh tại nơi cư trú về việc ảnh hưởng đến an ninh trật tự khi phạm nhân được tha tù trước thời hạn có điều kiện về địa phương cư trú. Do đó các tài liệu này có trong hồ sơ xét tha tù trước thời hạn có điều kiện không được đồng nhất (có hồ sơ căn cứ vào biên bản xác minh của Công an cấp xã, có hồ sơ căn cứ vào biên bản xác minh của Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, có hồ sơ căn cứ vào biên bản xác minh của Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh).

Thứ ba: Về việc công bố quyết định và tổ chức tha phạm nhân có quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Việc thực hiện tổ chức lễ công bố và thi hành quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện quy định tại Khoản 9, Điều 368 BLTTHS năm 2015 và Khoản 1, Điều 7 Thông tư số 12/TT-BCA ngày 07/5/2018 của Bộ Công an còn chưa thống nhất với hướng dẫn tại Công văn số 170/TANDTC-PC ngày 01/8/2018 của Tòa án nhân dân tối cao và Công văn số 460/ĐK-TK ngày 27/7/2018 của Tổng cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng và thi hành án hình sự - Bộ Công an, cụ thể:
Theo Khoản 9, Điều 368 BLTTHS năm 2015 và Khoản 1, Điều 7 Thông tư số 12 nêu trên thì ngay sau khi nhận được Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, cơ sở giam giữ phải tổ chức công bố quyết định, thực hiện các thủ tục thi hành quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện và tiến hành tha phạm nhân được tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Nhưng theo mục 2 tại Công văn số 170 và mục 1 của Công văn số 460 nêu trên thì thời điểm có hiệu lực của Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện là sau 15 ngày kể từ ngày ký, ban hành và đến ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật cơ sở giam giữ mới cấp giấy chứng nhận tha tù trước thời hạn và tha phạm nhân có Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện.

Do đó còn có quan điểm khác nhau trong thực hiện tổ chức lễ công bố quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện và tiến hành tha phạm nhân có Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, cụ thể: Có một số đơn vị cấp giấy chứng nhận tha tù trước thời hạn và trả tự do ngay sau khi nhận được quyết định tha tù (chưa đủ 15 ngày kể từ ngày ban hành quyết định) có nghĩa là lúc này Quyết định tha tù chưa có hiệu lực pháp luật, có thể bị phạm nhân khiếu nại hoặc bị Viện kiểm sát kháng nghị. Còn một số đơn vị cấp giấy chứng nhận tha tù trước hạn và trả tự do sau khi quyết định tha tù có hiệu lực pháp luật nghĩa là sau 15 ngày kể từ ngày ban hành quyết định.

Từ những vấn đề khó khăn, vướng mắc nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp như sau:

Một là: Về việc thực hiện xong hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, án phí trong xét tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với trường hợp đã tách ra bằng một vụ kiện dân sự khác hoặc trong trường hợp phạm nhân chưa chấp hành xong hình phạt tiền do thuộc trường hợp nghĩa vụ bồi thường là cấp dưỡng định kỳ nếu người phạm tội thực hiện đầy đủ theo từng kỳ thì được xác định là đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường.

Hai là: Đề nghị Bộ Công an cần có hướng dẫn cụ thể như thế nào là người được tha tù trước thời hạn có điều kiện “bảo đảm không ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội” và giao cụ thể cho cấp xã xác minh nội dung này. 

Ba là: Đối với việc công bố quyết định và tổ chức tha phạm nhân có quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện: Ngay sau khi nhận được quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải niêm yết danh sách phạm nhân được tha tù trước thời hạn có điều kiện tại cơ sở giam giữ phạm nhân. Ngay sau khi quyết định tha tù trước thời hạn có hiệu lực pháp luật, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện cấp giấy chứng nhận tha tù trước thời hạn có điều kiện và tha phạm nhân. Thời gian thử thách được tính từ ngày quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện có hiệu lực pháp luật.

Bốn là: Hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng dẫn các quy định về tha tù trước thời hạn theo hướng đồng bộ, thống nhất với Bộ luật hình sự, Tố tụng hình sự, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác Tha tù trước thời hạn có điều kiện cũng như công tác Kiểm sát việc tha tù trước thời hạn có điều kiện đạt hiệu quả cao.

 
                                               Đào Thị Hảo - VKSND tỉnh Tuyên Quang

Tổng số điểm của bài viết là: 35 trong 7 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Scroll to top