Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu - Trao đổi nghiệp vụ » Nghiên cứu - Trao đổi

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG - Đã xem: 5447

   Một số khó khăn vướng mắc trong kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.


Thứ ba - 04/12/2018 13:41
         
          Trả lại đơn khởi kiện trong tố tụng dân sự là hành vi của Thẩm phán Tòa án nhân dân khi được Chánh án Tòa án phân công xem xét đơn khởi kiện. Việc trả lại đơn khởi kiện không đúng quy định của Thẩm phán ảnh hưởng trực tiếp tới quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, vì vậy hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Viện kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và đảm bảo hành vi, quyết định của Thẩm phán được phân công xem xét, giải quyết đơn khởi kiện được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

          Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán vẫn còn một số vướng mắc trong quy định của pháp luật cần được sửa đổi, bổ sung để hoạt động kiểm sát đạt kết quả cao hơn, cụ thể:

          Thứ nhất, về thời hạn gửi văn bản trả lại đơn khởi kiện: theo quy định tại khoản 2, Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS) quy định: “Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp”.

          Nội dung điều luật đã quy định Thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện và gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp nhưng lại không quy định trong thời hạn bao lâu kể từ ngày có văn bản trả lại đơn khởi kiện thì Thẩm phán phải gửi cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện có đúng quy định hay không để thực hiện quyền kiến nghị theo quy định của pháp luật. Thực tế nhiều trường hợp khi đương sự có đơn khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán và gửi đến Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát mới nắm được Tòa án đã trả đơn khởi kiện cho đương sự.

          Thứ hai, khó khăn, vướng mắc trong kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện: Cũng theo quy định tại khoản 2, Điều 192 BLTTDS quy định: “…Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu”.  Như vậy, điều luật chỉ quy định Tòa án sao chụp và lưu tài liệu để làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị chứ không quy định phải gửi các tài liệu liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện cho Viện kiểm sát gây khó khăn cho việc kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện. Mặt khác, khoản 1, Điều 21 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC (TTLT 02/2016) ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì “Trường hợp Viện kiểm sát cần xem xét kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc sau khi nhận được thông báo mở phiên họp giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì Viện kiểm sát gửi văn bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp một số hoặc toàn bộ bản sao đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ”, như vậy chỉ trong trường hợp cần xem xét kiến nghị Viện kiểm sát mới có văn bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp tài liệu chứ không phải trong mọi trường hợp trả lại đơn khởi kiện của Tòa án Viện kiểm sát đều có quyền yêu cầu sao chụp tài liệu, chứng cứ. Quy định này cũng gây rất nhiều khó khăn, cản trở cho quá trình kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện.

          Thứ ba, về sự có mặt của đại diện Viện kiểm sát trong phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại trả lại đơn khởi kiện: Theo khoản 3, Điều 194 BLTTDS thì phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại có sự tham gia của đương sự và đại diện Viện kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, tại Điều 26 TTLT 02/2016 quy định “Kiểm sát viên được phân công có nhiệm vụ tham gia phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp, trừ trường hợp Viện kiểm sát kiến nghị”. Như vậy trong một số trường hợp do công việc đột xuất, không có Kiểm sát viên thay thế thì Viện kiểm sát không thực hiện được chức năng kiểm sát tại phiên họp xem xét, giải quyết đơn khiếu nại của đương sự. Quy định này cũng làm giảm chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát trả lại đơn khởi kiện.

          Từ những khó khăn, vướng mắc nêu trên kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật liên quan đến kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, cụ thể như sau:

          Bổ sung tại khoản 2, Điều 192 BLTTDS 2015 các nội dung:

          - Thời hạn gửi văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án nhân dân cho Viện kiểm sát nhân dân là 03 ngày, kể từ ngày ban hành văn bản trả lại đơn khởi kiện.

          - Đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao gửi cho Viện kiểm sát cùng văn bản trả lại đơn khởi kiện.

          Bổ sung tại khoản 3, Điều 194 BLTTDS 2015 và sửa đổi Điều 26 TTLT 02/2016 nội dung: Trường hợp đại diện Viện kiểm sát vắng mặt tại phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp.

          Trên đây là quan điểm cá nhân, rất mong nhận được sự góp ý của quý độc giả và các đồng nghiệp.

                                                                                            Trần Đức Hiệp.

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Scroll to top