Trong
những
năm
gần
đây,
việc
xét
xử
các
vụ
án
tham
nhũng,
kinh
tế
luôn
là
vấn
đề
được
xã
hội
quan
tâm,
đặc
biệt
công
tác
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
thất
thoát
cho
nhà
nước
luôn
được
cấp
ủy,
tổ
chức
Đảng
các
cấp
quan
tâm
lãnh
đạo,
chỉ
đạo,
qua
đó
tạo
chuyển
biến
tích
cực
trong
công
tác
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
và
tài
sản
bị
thất
thoát,
chiếm
đoạt
trong
các
vụ
án
hình
sự
về
tham
nhũng,
kinh
tế,
đạt
nhiều
thành
tích
mới
trong
công
tác
đấu
tranh,
phòng
chống
tham
nhũng.
Một
phần
của
thành
công
đó
là
việc
ban
hành
mới
Luật
Phòng,
chống
tham
nhũng
năm
2018.
Trước
năm
2013,
tỷ
lệ
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
trung
bình
chỉ
đạt
khoảng
10%
trên
tổng
số
phải
thu
hồi,
2013-2020
đạt
hơn
26%.
Đặc
biệt
là
năm
2019
và
năm
2020,
thu
hồi
bằng
61%
tổng
số
đã
thu
hồi
được
trước
đây.
Tuy
có
nhiều
cải
thiện,
nhưng
kết
quả
này
vẫn
chưa
phải
là
cao,
số
tài
sản
thu
hồi
còn
thấp
hơn
so
với
tài
sản
bị
chiếm
đoạt,
thất
thoát,
nguyên
nhân
là
do
việc
thu
hồi
tài
sản
sau
trong
các
vụ
án
hình
sự
về
tham
nhũng,
kinh
tế
vẫn
còn
nhiều
khó
khăn,
vướng
mắc,
bất
cập
của
các
quy
định
pháp
luật
về
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Trong
thời
gian
qua
công
tác
thu
hồi
tài
sản
trong
các
vụ
án
tham
nhũng,
kinh
tế
đã
có
nhiều
chuyển
biến
tích
cực,
tại
nhiều
phiên
họp
được
quan
tâm
lãnh
đạo,
chỉ
đạo,
thể
hiện
qua
nhiều
Văn
kiện
của
Đảng;
chính
sách,
pháp
luật
của
Nhà
nước.
Nghị
quyết
Trung
ương
3
(khóa
X)
nêu
rõ:
“Chú
trọng
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng;
áp
dụng
chính
sách
khoan
hồng
đối
với
những
người
phạm
tội
nhưng
có
thái
độ
thành
khẩn,
đã
bồi
thường
thiệt
hại
hoặc
khắc
phục
hậu
quả
kinh
tế,
hợp
tác
tốt
với
cơ
quan
chức
năng;
nghiên
cứu
sửa
đổi
pháp
luật
hình
sự
theo
hướng
khoan
hồng
hơn
đối
với
những
người
đưa
hoặc
người
nhận
hối
lộ
nhưng
đã
tự
giác
khai
báo
và
nộp
lại
tài
sản
trước
khi
bị
phát
hiện;
chú
trọng
tới
các
chế
tài
phạt
tiền
nhằm
tăng
khả
năng
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng”.
Chỉ
thị
số
50-CT/TW,
ngày
07/12/2015
về
“Tăng
cường
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
đối
với
công
tác
phát
hiện,
xử
lý
vụ
việc,
vụ
án
tham
nhũng”,
Bộ
Chính
trị
nhấn
mạnh:
“Trong
xử
lý
tham
nhũng
phải
xác
minh
rõ,
chính
xác
tài
sản
của
người
có
hành
vi
tham
nhũng;
áp
dụng
kịp
thời
các
biện
pháp
thu
hồi
tối
đa
tài
sản
do
tham
nhũng
mà
có
trong
quá
trình
thanh
tra,
kiểm
tra,
kiểm
toán,
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử,
thi
hành
án.
Xử
lý
nghiêm
minh
những
cán
bộ
không
tích
cực
thu
hồi
hoặc
cản
trở
hoạt
động
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng”.
Các
quy
định
của
pháp
luật
hình
sự
và
tố
tụng
hình
sự:
Bộ
luật
Hình
sự
đã
thể
hiện
rõ
quan
điểm
“chú
trọng
tới
các
chế
tài
phạt
tiền
nhằm
tăng
khả
năng
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng”
được
nêu
tại
Nghị
quyết
Trung
ương
3
(khóa
X).
Theo
đó,
Điều
40
Bộ
luật
Hình
sự
quy
định
không
thi
hành
án
tử
hình
đối
với
người
bị
kết
án
nếu:
“Người
bị
kết
án
tử
hình
về
tội
tham
ô
tài
sản,
tội
nhận
hối
lộ
mà
sau
khi
bị
kết
án
đã
chủ
động
nộp
lại
ít
nhất
ba
phần
tư
tài
sản
tham
ô,
nhận
hối
lộ
và
hợp
tác
tích
cực
với
cơ
quan
chức
năng
trong
việc
phát
hiện,
điều
tra,
xử
lý
tội
phạm
hoặc
lập
công
lớn”.
Bộ
luật
Hình
sự
đã
có
nhiều
quy
định
nhằm
tăng
cường
thu
hồi
tài
sản
trong
các
vụ
án
kinh
tế,
tham
nhũng
như:
Điều
45
BLHS
đã
quy
định
“Tịch
thu
tài
sản
chỉ
được
áp
dụng
đối
với
người
bị
kết
án
về
tội
phạm
nghiêm
trọng,
tội
phạm
rất
nghiêm
trong
hoặc
tội
đặc
biệt
nghiêm
trọng
xâm
phạm
an
ninh
quốc
gia,
tội
phạm
về
ma
túy,
Tham
nhũng…”,
Điều
47
Bộ
luật
Hình
sự
quy
định
rõ
về
việc
tịch
thu
vật,
tiền
trực
tiếp
liên
quan
đến
tội
phạm;
khoản
1
Điều
48
Bộ
luật
Hình
sự
quy
định
“Người
phạm
tội
phải
trả
lại
tài
sản
đã
chiếm
đoạt
cho
chủ
sở
hữu
hoặc
người
quản
lý
hợp
pháp,
phải
sửa
chữa
hoặc
bồi
thường
thiệt
hại
vật
chất
đã
được
xác
định
do
hành
vi
phạm
tội
gây
ra”,
ngoài
ra
hình
phạt
bổ
sung
là
phạt
tiền
còn
được
quy
định
trong
tất
cả
các
tội
phạm
tham
nhũng.
Đây
là
cơ
sở
pháp
lý
để
tòa
án
áp
dụng
các
biện
pháp
tư
pháp
nhằm
thu
hồi
tài
sản
trong
các
vụ
án
kinh
tế,
tham
nhũng.
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự,
quy
định
cụ
thể
trách
nhiệm
của
Thủ
trưởng,
Phó
Thủ
trưởng
cơ
quan
điều
tra,
Điều
tra
viên,
của
Viện
trưởng,
Phó
Viện
trưởng,
Kiểm
sát
viên,
Chánh
án,
Phó
Chánh
án,
Thẩm
phán
trong
việc
quyết
định
áp
dụng
các
biện
pháp
ngăn
chặn,
biện
pháp
cưỡng
chế
như
kê
biên,
phong
tỏa
tài
sản,
tài
khoản
để
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng.
Tuy
nhiên
hiện
nay
vẫn
còn
có
một
số
bất
cập,
khó
khăn,
vướng
mắc
liên
quan
đến
công
tác
thu
hồi
tài
sản
trong
các
vụ
án
tham
nhũng,
kinh
tế,
cụ
thể:
Thứ
nhất:
Việc
thu
thập
chứng
cứ
trong
quá
trình
điều
tra,
truy
tố
và
xét
xử
các
vụ
án
tham
nhũng,
kinh
tế
gặp
nhiều
khó
khăn,
phức
tạp,
nhất
là
trong
việc
xác
định
tài
sản
có
nguồn
gốc
tham
nhũng
bởi
các
hành
vi
tham
nhũng
thường
diễn
ra
sau
nhiều
tháng,
nhiều
năm,
thậm
chí
trong
một
khoảng
thời
gian
dài
mới
bị
phát
hiện.
Quá
trình
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
án
tham
nhũng
thường
mất
rất
nhiều
thời
gian,
bị
gián
đoạn
do
nhiều
cơ
quan
có
chức
năng
khác
nhau
thực
hiện
dẫn
tới
việc
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
không
kịp
thời
áp
dụng
các
biện
pháp
để
thu
giữ,
kê
biên
tài
sản
của
các
đối
tượng
phạm
tội
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Khó
khăn
này
phần
nào
xuất
phát
từ
việc
kiểm
soát
kê
khai
minh
bạch
hóa
tài
sản
của
cán
bộ,
công
chức,
viên
chức
của
các
cơ
quan
chưa
được
tiến
hành
một
cách
quyết
liệt,
triệt
để;
thậm
chí
có
đơn
vị,
địa
phương
chỉ
tiến
hành
công
việc
này
manh
tính
chất
hình
thức.
Chính
vì
vậy
đã
tạo
ra
những
“kẽ
hở”
cho
các
đối
tượng
phạm
tội
lợi
dụng
để
dễ
dàng
tẩu
tán
tài
sản
tham
nhũng
dưới
nhiều
hình
thức
khác
nhau
như
đầu
tư
mua
cổ
phiếu,
bất
động
sản
nhưng
nhờ
người
khác
đứng
tên,
chuyển
dịch
tài
sản
cho
người
khác…
thậm
chí
chuyển
tiền
ra
nước
ngoài.
Việc
các
đối
tượng
che
giấu
tài
sản
tham
nhũng
mà
các
đối
tượng
có
ở
ngoài
xã
hội
bằng
hình
thức
nhờ
người
khác
đứng
tên
nhiều
tài
sản
có
giá
trị
như
bất
động
sản,
nhà
đất,
xe
ô
tô,
tàu
thuyền
thì
không
có
căn
cứ,
bằng
chứng
để
xác
định,
kết
tội
được.
Mặt
khác,
trong
giai
đoạn
hiện
nay,
“văn
hóa
sử
dụng
tiền
mặt”
ở
nước
ta
vẫn
còn
rất
phổ
biến;
cơ
chế
minh
bạch
hóa
tài
sản
vẫn
chưa
được
cụ
thể
hóa
bằng
các
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật
cụ
thể;
khả
năng
kiểm
soát
dòng
tiền
mặt
của
ngân
hàng
chưa
được
tốt…
do
vậy,
việc
chứng
minh
nguồn
gốc
các
tài
sản
tham
nhũng
cũng
gây
không
ít
khó
khăn
cho
việc
thu
hồi
của
các
cơ
quan
chức
năng.
Thứ
hai:
Các
biện
pháp
ngăn
chặn,
thu
hồi
tài
sản
do
pháp
luật
quy
định
còn
chậm
trễ,
không
khả
thi.
Cơ
chế
để
bảo
đảm
thu
hồi
tài
sản
bị
chiếm
đoạt,
thất
thoát
chỉ
được
quy
định
trong
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự,
quá
trình
thực
hiện
phát
sinh
nhiều
khó
khăn,
vướng
mắc
(Ví
dụ:
Thời
điểm
áp
dụng
biện
pháp
kê
biên
tài
sản
chỉ
được
áp
dụng
đối
với
bị
can,
bị
cáo;
trong
khi
đó
hành
vi
tham
nhũng
có
thể
đã
được
phát
hiện
từ
hoạt
động
kiểm
tra
và
tự
kiểm
tra
của
các
cơ
quan,
hoạt
động
giám
sát,
thanh
tra,
kiểm
toán
và
phản
ánh,
tố
cáo
của
cá
nhân,
tổ
chức,
do
đó,
tiềm
ẩn
nguy
cơ
cao
việc
tẩu
tán
tài
sản
của
bản
thân
người
phạm
tội
và
những
người
thân
thích
của
họ).
Bên
cạnh
đó
pháp
luật
về
tố
tụng
hình
sự
chưa
có
quy
định
cụ
thể
các
biện
pháp
điều
tra,
truy
tìm
tài
sản
bị
tẩu
tán,
che
giấu
ngay
từ
giai
đoạn
điều
tra.
Tài
sản
bị
tịch
thu
phải
là
tài
sản
liên
quan
trực
tiếp
đến
tội
phạm,
trong
khi
trên
thực
tế,
tài
sản
do
tham
nhũng
mà
có
thường
được
cất
giấu,
che
đậy,
chuyển
hình
thức
sở
hữu
ngay
trong
quá
trình
phạm
tội,
trước
khi
có
quyết
định
khởi
tố
vụ
án,
khởi
tố
bị
can;
chưa
có
quy
định
cụ
thể
về
trách
nhiệm
phối
hợp
của
các
cơ
quan,
tổ
chức,
đơn
vị
với
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
phát
hiện,
thu
hồi
tài
sản
các
vụ
án
tham
nhũng,
kinh
tế
trong
các
lĩnh
vực
như
ngân
hàng,
tài
chính,
đất
đai.
Thứ
ba:
Về
việc
sau
khi
khởi
tố,
đang
trong
giai
đoạn
điều
tra
thì
người
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
về
tham
nhũng
chết
thì
đến
nay
chưa
có
quy
định
về
việc
thu
hồi
tài
sản
của
người
phạm
tội
nhưng
chưa
bị
kết
án
bằng
một
bản
án.
Theo
quy
định
tại
khoản
7,
Điều
157
và
Điều
248
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
thì
người
thực
hiện
hành
vi
nguy
hiểm
cho
xã
hội
đã
chết
thì
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
phải
ra
Quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
vụ
án,
Quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
bị
can
(nếu
đã
khởi
tố)
quá
đó
chấm
dứt
toàn
bộ
hoạt
động
tố
tụng
đối
với
vụ
án.
Tuy
nhiên
trong
một
số
vụ
án
tham
nhũng,
kinh
tế
sau
khi
khởi
tố,
điều
tra,
truy
tố
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
chưa
thu
hồi
được
tài
sản
mà
người
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
chết
thì
việc
thu
hồi
tài
sản
sẽ
thực
hiện
theo
quy
định
nào?
Hiện
tại
ở
Việt
Nam
mới
có
hình
thức
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng,
kinh
tế
từ
bản
án;
không
thể
thu
hồi
tài
sản
khi
không
có
bản
án
của
Tòa
án.
Thứ
tư:
Hiện
nay
nước
ta
chưa
có
quy
định
cụ
thể
về
tiền
ảo.
Trong
một
số
vụ
án
tham
nhũng,
kinh
tế,
đối
tượng
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
thường
không
chuyển
trực
tiếp
tiền
ra
nước
ngoài
thông
qua
tài
khoản
ngân
hàng
vì
rất
dễ
bị
phát
hiện,
với
sự
bùng
nổ
công
nghệ
thông
tin
như
hiện
nay
các
đối
tượng
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
tham
nhũng,
kinh
tế
có
xu
hướng
sử
dụng
số
tiền
chiếm
đoạt
được
để
mua
tiền
ảo
(như
đồng
bitcoin
…)
rồi
mới
chuyển
ra
nước
ngoài
do
vậy
rất
khó
để
kiểm
soát.
Mặc
khác
do
không
có
quy
định
cụ
thể
nên
việc
tạm
giữ,
thu
giữ
đồng
tiền
ảo
do
các
đối
tượng
thực
hiện
hành
vi
tham
nhũng,
kinh
tế
sử
dụng
số
tiền
chiếm
đoạt
được
mua
đồng
tiền
ảo
còn
gặp
rất
nhiều
khó
khăn.
Một
số
đề
xuất,
kiến
nghị:
-
Tiếp
tục
tăng
cường
công
tác
phát
hiện,
điều
tra,
tập
trung
xác
minh,
truy
tìm
những
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
thuộc
sở
hữu
của
đối
tượng,
người
nhà
đối
tượng
hoặc
tài
sản
của
đối
tượng
nhưng
nhờ
người
khác
đứng
tên;
khẩn
trương
kê
biên,
phong
tỏa
theo
quy
định
đối
với
những
tài
sản
này
nhằm
tránh
việc
đối
tượng
tẩu
tán,
tiêu
hủy
tài
sản
tham
nhũng.
Thực
hiện
nghiêm
các
quy
định
của
pháp
luật,
quy
trình
liên
quan
đến
công
tác
kê
biên,
phong
tỏa,
thu
hồi
tài
sản.
Cơ
quan
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
khi
thực
hiện
các
biện
pháp
kê
biên
cần
chú
ý
xác
định
hiện
trạng
và
tình
trạng
pháp
lý
của
tài
sản,
lập
biên
bản
rõ
ràng,
chi
tiết,
đúng
hiện
trạng
để
có
cơ
sở
xử
lý
tài
sản
trong
giai
đoạn
thi
hành
án.
-
Thực
hiện
tốt
các
giải
pháp
được
nêu
trong
Chỉ
thị
số
04-CT/TW
ngày
02/6/2021
Ban
Bí
thư
về
tăng
cường
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
đối
với
công
tác
thu
hồi
tài
sản
bị
thất
thoát,
chiếm
đoạt
trong
các
vụ
án
hình
sự
về
tham
nhũng,
kinh
tế.
-
Quá
trình
xét
xử
Tòa
án
cần
quyết
định
rõ
quyền
sở
hữu,
quyền
sử
dụng
các
tài
sản
đã
áp
dụng
biện
pháp
bảo
đảm
từ
khi
khởi
tố
vụ
án,
đồng
thời,
xác
định
rõ
nghĩa
vụ
thi
hành
án
của
bị
cáo
(kể
cả
nghĩa
vụ
liên
đới
theo
phần)
để
đảm
bảo
hiệu
quả
xử
lý
tài
sản
trong
quá
trình
thi
hành
án,
tránh
phát
sinh
tranh
chấp
và
khiếu
nại,
tố
cáo
của
đương
sự.
-
Pháp
luật
Việt
Nam
cần
bổ
sung
một
số
phương
thức
thu
hồi
tài
sản
tham
nhũng
như
một
số
quốc
gia
trên
thế
giới,
cụ
thể
+
Tịch
thu
không
dựa
trên
bản
án
hình
sự
hay
gọi
là
“thu
hồi
dân
sự”.
Trong
khi
thu
hồi
hình
sự
là
thủ
tục
pháp
lý
đối
với
cá
nhân
thì
thu
hồi
dân
sự
là
một
thủ
tục
pháp
lý
đối
với
tài
sản,
nghĩa
là
hành
động
hướng
tới
chính
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có.
Ưu
điểm
của
biện
pháp
này
là
không
chỉ
giúp
tăng
cường
hiệu
quả
của
công
tác
chống
tham
nhũng
và
rửa
tiền
mà
còn
hỗ
trợ
các
quốc
gia
yêu
cầu
đã
quyết
định
chuyển
giao
vụ
án
cho
quốc
gia
được
yêu
cầu.
+
Thu
hồi
tài
sản
thông
qua
phán
quyết
hành
chính:
Các
quốc
gia
có
thể
sử
dụng
đa
dạng
các
biện
pháp
bồi
thường
mang
tính
chất
hành
chính,
gồm
thu
hồi
thông
qua
quyết
định
hành
chính
không
cần
phán
quyết
tư
pháp,
phong
tỏa
tài
sản
theo
lệnh
của
cơ
quan
lập
pháp
hoặc
cơ
quan
hành
pháp,
hoặc
thi
hành
quyết
định
hành
chính
tại
tòa
án
bởi
việc
ban
hành
các
quyết
định
thu
hồi
tài
sản
sau
đó.
Để
thực
hiện
việc
thu
hồi
tài
sản
trong
các
vụ
án
tham
nhũng,
kinh
tế
được
triệt
để,
đòi
hỏi
phải
có
sự
phối
hợp
chặt
chẽ
giữa
các
cơ
quan
tố
tụng
và
các
cơ
quan
có
liên
quan
(như:
Thanh
tra,
Kiểm
toán,.v..v.)
để
đảm
bảo
ngay
từ
giai
đoạn
thụ
lý
tin
báo
tố
giác
tội
phạm
đến
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
nhằm
đảm
bảo
việc
thu
hồi
tài
sản
trong
các
vụ
án
tham
nhũng,
kinh
tế
đạt
hiệu
quả
cao.
Phạm
Việt
Hùng
-
Viện
KSND
huyện
Sơn
Dương