Vật
chứng
là
vật
được
dùng
làm
công
cụ,
phương
tiện
phạm
tội,
vật
mang
dấu
vết
tội
phạm,
vật
là
đối
tượng
của
tội
phạm,
tiền
hoặc
vật
khác
có
giá
trị
chứng
minh
tội
phạm
và
người
phạm
tội
hoặc
có
ý
nghĩa
trong
việc
giải
quyết
vụ
án
(Điều
89
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự).
Việc
xử
lý
vật
chứng
do
Cơ
quan
điều
tra,
cơ
quan
được
giao
nhiệm
vụ
tiến
hành
một
số
hoạt
động
điều
tra
quyết
định
nếu
vụ
án
được
đình
chỉ
ở
giai
đoạn
điều
tra;
do
Viện
kiểm
sát
quyết
định
nếu
vụ
án
được
đình
chỉ
ở
giai
đoạn
truy
tố;
do
Chánh
án
Tòa
án
quyết
định
nếu
vụ
án
được
đình
chỉ
ở
giai
đoạn
chuẩn
bị
xét
xử;
do
Hội
đồng
xét
xử
quyết
định
nếu
vụ
án
đã
đưa
ra
xét
xử
(khoản
1
Điều
106
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự).
Tùy
theo
từng
loại
vật
chứng
sẽ
được
xử
lý
bằng
các
biện
pháp
khác
nhau,
như:
Tịch
thu
tiêu
hủy,
tịch
thu
sung
quỹ
nhà
nước,
trả
lại
cho
chủ
sở
hữu
hoặc
người
quản
lý
hợp
pháp.
Tại
khoản
2
Điều
106
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
năm
2015
quy
định:
-
“Nếu
vật
chứng
là
công
cụ
phương
tiện
phạm
tội,
vật
cấm
tàng
trữ,
lưu
hành
thì
bị
tịch
thu,
nộp
ngân
sách
nhà
nước
hoặc
tiêu
hủy.
-
Vật
chứng
là
tiền
bạc
hoặc
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
thì
bị
tịch
thu,
nộp
ngân
sách
nhà
nước…"
Tại
khoản
3
điều
106
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
quy
định:
Trong
quá
trình
điều
tra
truy
tố,
xét
xử,
cơ
quan
người
có
thẩm
quyền
xử
lý
vật
chứng
có
quyền:
“a)Trả
lại
ngay
tài
sản
đã
thu
giữ,
tạm
giữ
nhưng
không
phải
là
vật
chứng
cho
chủ
sở
hữu
hoặc
người
quản
lý
hợp
pháp
tài
sản
đó;
b)
Trả
lại
ngay
vật
chứng
cho
chủ
sở
hữu
hoặc
người
quản
lý
hợp
pháp
nếu
xét
thấy
không
ảnh
hưởng
đến
việc
xử
lý
vụ
án
và
thi
hành
án
….”
Tại
Điều
47
Bộ
luật
Hình
sự
năm
2015
quy
định:
"1.
Tịch
thu
sung
công
quỹ
nhà
nước
hoặc
tịch
thu
tiêu
hủy
được
áp
dụng
đối
với
a)
…
b)
Vật
hoặc
tiền
do
phạm
tội
hoặc
do
mua
bán,
đổi
chác
những
thứ
ấy
mà
có;
khoản
thu
lợi
bất
chính
từ
việc
phạm
tội;
…
2.
Đối
với
vật,
tiền
bị
người
phạm
tội
chiếm
đoạt
hoặc
sử
dụng
trái
phép,
thì
không
tịch
thu
mà
trả
lại
cho
chủ
sở
hữu
hoặc
người
quản
lý
hợp
pháp...”
Theo
quy
định
trên
thì
trong
những
vụ
án
hình
sự
“Vi
phạm
quy
định
về
khai
thác,
bảo
vệ
rừng
và
lâm
sản”,
vật
chứng
là
lâm
sản
(gỗ)
đã
được
phát
hiện
và
thu
giữ
trong
các
điều
kiện,
hoàn
cảnh
khác
nhau,
việc
áp
dụng
biện
pháp
tư
pháp
khi
xử
lý
vật
chứng
trong
từng
vụ
án
có
sự
khác
nhau,
trên
thực
tế
đã
xảy
ra
những
trường
hợp
sau:
Vật
chứng
của
vụ
án
hình
sự
lâm
sản
(gỗ)
là
tài
sản
thuộc
sở
hữu
của
Nhà
nước
đã
xác
định
rõ
Chủ
quản
lý
rừng
(hay
còn
gọi
là
người
quản
lý
hợp
pháp),
nhưng
khi
xử
lý
vật
chứng
lại
tồn
tại
ở
hai
dạng
khác
nhau:
- Một
là
khối
lượng
lâm
sản
đã
bị
khai
thác
nhưng
vẫn
còn
ở
tại
rừng
(hiện
trường);
- Hai
là
vật
chứng
(lâm
sản)
đã
được
vận
chuyển
ra
khỏi
rừng
và
đang
bị
tạm
giữ
chuyển
theo
vụ
án.
Việc
xử
lý
vật
chứng
đối
với
những
trường
hợp
này
trên
thực
tế
đã
có
sự
khác
nhau
trong
việc
áp
dụng
pháp
luật,
cụ
thể:
Vụ
án
thứ
nhất:
Ngày
18/01/2017,
Chúc
Văn
N
cùng
đồng
phạm
đến
khu
vực
rừng
phòng
hộ
thuộc
Thôn
C,
xã
P,
huyện
L,
khai
thác
01
cây
gỗ
Nghiến,
thuộc
nhóm
IIA
có
khối
lượng
142,528
m3
(Chủ
rừng
là
Ban
quản
lý
rừng
phòng
hộ
huyện
L).
Trong
vụ
án
này
toàn
bộ
khối
lượng
gỗ
Nghiến
bị
các
bị
cáo
khai
thác
còn
lại
tại
hiện
trường
đã
được
Tòa
án
tuyên
giao
cho
Ban
quản
lý
rừng
phòng
hộ
huyện
L
quản
lý
theo
quy
định,
đối
với
08
khúc
gỗ
Nghiến
được
sơ
chế
thành
dạng
cột
nhà
và
10
thanh
gỗ
Nghiến
đã
được
sơ
chế
thành
dạng
hộp
có
tổng
khối
lượng
2,125m3
đã
bị
các
bị
cáo
và
các
đối
tượng
khai
thác
đem
ra
khỏi
hiện
trường
(thu
giữ
theo
vụ
án)
đã
được
Tòa
án
tuyên
tịch
thu
sung
quỹ
nhà
nước.
Vụ
án
thứ
hai:
Cuối
tháng
9/2017,
Hoàng
Văn
L
cùng
Phùng
Sành
H,
đến
khu
rừng
S,
thuộc
thôn
N,
xã
S,
huyện
N
(đối
tượng
rừng
phòng
hộ)
khai
thác
01
cây
gỗ
Sâng
(nhóm
VI)
khối
lượng
23,428
m3,
UBND
xã
S
được
xác
định
chịu
trách
nhiệm
tổ
chức
quản
lý,
bảo
vệ
rừng
(theo
Luật
lâm
nghiệp).
Trong
vụ
án
này,
toàn
bộ
khối
lượng
gỗ
các
bị
cáo
khai
thác
để
lại
tại
hiện
trường
(tại
rừng)
đã
được
Tòa
án
xét
xử
tuyên
giao
cho
Hạt
kiểm
lâm
huyện
N
(là
đơn
vị
có
nhiệm
vụ
phối
hợp
với
cơ
quan
có
liên
quan
tổ
chức
bảo
vệ
rừng)
quản
lý,
xử
lý
theo
thẩm
quyền.
Vụ
án
thứ
ba:
Tháng
3/2017,
Hoàng
Văn
T
và
Đặng
Kim
H
khai
thác
trái
phép
một
cây
gỗ
nghiến
(thuộc
nhóm
IIA)
có
khối
lượng
là
23,530m3,
tại
khu
vực
rừng
đặc
dụng
C,
khu
vực
K,
thuộc
thôn
C
xã
Y
huyện
H
(UBND
xã
Y
chịu
trách
nhiệm
quản
lý,
bảo
vệ
rừng).
Sau
khi
cắt
đổ
cây
gỗ
nghiến,
T
và
H
cắt
được
08
tấm
bìu
nghiến
có
tổng
khối
lượng
là
0,163m3
từ
cây
nghiến
đó
và
vận
chuyển
08
tấm
bìu
về
nhà.
Khoảng
17
giờ
cùng
ngày
thì
bị
tổ
công
tác
Trạm
kiểm
lâm
Y,
huyện
H
phát
hiện
và
thu
giữ
toàn
bộ
vật
chứng.
Toàn
bộ
khối
lượng
gỗ
các
bị
cáo
khai
thác
để
lại
tại
hiện
trường
(tại
rừng)
và
khối
lượng
gỗ
đã
bị
thu
giữ
tại
gia
đình
bị
cáo
đều
được
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
xét
xử
tuyên
giao
lại
cho
UBND
xã
Y
huyện
H
để
xử
lý
theo
quy
định
pháp
luật.
Qua
03
vụ
án
nêu
trên,
cho
thấy
việc
xử
lý
vật
chứng
là
lâm
sản
thuộc
sở
hữu
của
Nhà
nước
đã
thiếu
sự
thống
nhất,
nơi
thì
tuyên
tịch
thu
sung
công
quỹ
Nhà
nước,
nơi
thì
giao
cho
Kiểm
lâm,
nơi
thì
giao
cho
Chủ
quản
lý
rừng,
do
có
2
quan
điểm
trong
việc
xử
lý
vật
chứng
(gỗ)
như
sau:
Quan
điểm
thứ
nhất:
Cho
rằng
căn
cứ
điểm
b
khoản
1
Điều
47
Bộ
luật
Hình
sự
tịch
thu
sung
quỹ
nhà
nước
khối
lượng
lâm
sản
(tài
sản
thuộc
sở
hữu
của
Nhà
nước)
do
các
đối
tượng
phạm
tội
khai
thác
trái
phép,
đang
bị
tạm
giữ
chờ
xử
lý,
đó
là
tài
sản
do
phạm
tội
mà
có
nên
tịch
thu
sung
công
quỹ
nhà
nước.
Quan
điểm
thứ
hai:
Căn
cứ
điểm
b
khoản
3
Điều
106
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
và
khoản
2
Điều
47
Bộ
luật
Hình
sự,
khi
xét
xử
cần
giao
vật
chứng
(khối
lượng
lâm
sản)
đã
bị
các
đối
tượng
phạm
tội
khai
thác
trái
phép
cho
Chủ
rừng
(người
quản
lý
hợp
pháp).
Chủ
rừng
có
trách
nhiệm
báo
cáo
UBND
tỉnh
đối
với
số
gỗ
(lâm
sản)
đã
bị
thu
giữ
để
xử
lý
theo
quy
định.
Nếu
thực
hiện
theo
quan
điểm
thứ
nhất
thì
không
đúng
quy
định
tại
khoản
3
Điều
106
Bộ
luật
tố
tụng
hình
sự
và
khoản
2
Điều
47
Bộ
luật
hình
sự,
nhưng
đáp
ứng
được
yêu
cầu
thực
tế
bởi
lẽ
tài
sản
của
Nhà
nước
trước
sau
cũng
phải
tịch
thu
sung
quỹ
nhà
nước.
Nếu
thực
hiện
theo
quan
điểm
thứ
hai
thì
đúng
với
quy
định
tại
khoản
2
Điều
47
Bộ
luật
Hình
sự
và
Điều
106
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự,
vì
gỗ
(lâm
sản)
vừa
là
vật
chứng,
vừa
là
tài
sản
đã
xác
định
được
Chủ
quản
lý
phải
giao
lại
cho
Chủ
quản
lý.
Tuy
nhiên,
nếu
thực
hiện
theo
quan
điểm
này
còn
có
những
bất
cập,
vì
đây
là
tài
sản
thuộc
sở
hữu
của
Nhà
nước,
Chủ
quản
lý
rừng
không
có
thẩm
quyền
bán
sung
quỹ
Nhà
nước,
mà
sau
khi
giao
cho
Chủ
quản
lý
rừng,
thì
Chủ
quản
lý
rừng
vẫn
phải
có
trách
nhiệm
nhận
quản
lý
bảo
quản
và
báo
cáo
cấp
trên
có
thẩm
quyền
xử
lý
theo
quy
định
(như
làm
các
thủ
tục
phát
mại
bán
xung
quỹ
nhà
nước).
Như
vậy,
trong
trường
hợp
cụ
thể
này
vật
chứng
tuyên
trả
lại
cho
chủ
quản
lý
tài
sản
cũng
chưa
đáp
ứng
được
hết
yêu
cầu
thực
tế
đã
xảy
ra,
vì
có
giao
cho
Chủ
quản
lý
thì
cuối
cùng
vẫn
phải
tịch
thu
bán
sung
quỹ
Nhà
nước,
trong
khi
đó
vật
chứng
này
lại
là
vật
cồng
kềnh,
việc
vận
chuyển
ra
khỏi
rừng
và
bảo
quản
khó
khăn,
phải
chi
phí
tốn
kém.
Để
khắc
phục
bất
cập
này,
theo
tôi
khi
xử
lý
vật
chứng
là
lâm
sản
thuộc
sở
hữu
Nhà
nước
đã
xác
định
được
chủ
quản
lý
hợp
pháp,
cần
căn
cứ
thực
trạng
của
vật
chứng
đã
và
đang
được
bảo
quản
trên
thực
tế
mà
xử
lý
cho
phù
hợp.
Nếu
vật
chứng
là
lâm
sản
vẫn
được
để
ở
trong
khu
vực
thuộc
quản
lý
của
Chủ
rừng
thì
giao
cho
Chủ
rừng
(tức
người
quản
lý
hợp
pháp)
có
trách
nhiệm
phối
hợp
với
Kiểm
lâm
quản
lý
và
bảo
quản
theo
quy
định;
Trường
hợp
vật
chứng
(lâm
sản)
đã
được
vận
chuyển
ra
khỏi
rừng
(ngoài
hiện
trường)
thì
tuyên
tịch
thu
sung
công
quỹ
Nhà
nước
để
tránh
việc
phải
vận
chuyển,
bảo
quản
chi
phí
tốn
kém
không
cần
thiết.
Trên
đây
là
bất
cập
trong
việc
xử
lý
vật
chứng
lâm
sản
là
gỗ
(thuộc
sở
hữu
Nhà
nước)
trong
các
vụ
án
hình
sự
“vi
phạm
quy
định
về
khai
thác,
bảo
vệ
rừng
và
lâm
sản”,
rất
mong
liên
ngành
trung
ương
sớm
có
văn
bản
hướng
dẫn
để
việc
áp
dụng
pháp
luật
về
xử
lý
vật
chứng
được
thống
nhất,
đúng
quy
định
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
và
Bộ
luật
Hình
sự