Bàn về việc xác định tư cách tham gia tố tụng trong vụ án “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”
- Thứ ba - 09/09/2025 03:33
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Trong thời gian qua, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đang diễn ra với nhiều mức độ và tính chất nghiêm trọng khác nhau. Tuy nhiên, công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là trong việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể có liên quan. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xử lý, truy tố và xét xử vụ án hình sự liên quan đến hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2022), quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các đối tượng như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý... được Nhà nước bảo hộ. Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”, trong đó hành vi sử dụng trái phép nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự về xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, đặc biệt là khi chủ sở hữu quyền là tổ chức nước ngoài, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của tổ chức được ủy quyền thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam cần được cấp trên hướng dẫn, thống nhất đường lối giải quyết. Trong phạm vi bài viết, tác giả xin đưa ra một tình huống cụ thể để chúng ta cùng nghiên cứu, trao đổi như sau:
Nội dung vụ án: Hồi 15 giờ 15 phút ngày 15/12/2024, tại địa điểm kinh doanh của Công ty TNHH MTV Vàng bạc trang sức GS thuộc tổ dân phố X, phường Y, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang; T.T.T.G (cư trú tại địa chỉ trên, là Giám đốc Công ty) đã có hành vi Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp dưới hình thức kinh doanh 70 (Bảy mươi) sản phẩm đồ trang sức giả mạo nhãn hiệu CHANEL đang được bảo hộ tại Việt Nam, hàng hóa vi phạm có trị giá 280.866.000 đồng nhằm mục đích bán kiếm lời. Kết quả điều tra xác định nguồn gốc 70 sản phẩm đồ trang sức giả mạo nhãn hiệu trên do G thu mua của những người dân (không xác định được tên, tuổi, địa chỉ) mang đến cửa hàng của G để bán từ khoảng tháng 11/2024, khi mua G biết rõ đây là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu CHANEL. Quá trình giải quyết vụ án, Công ty TNHH Tư Vấn Sở Hữu Trí Tuệ IPT (đại diện sở hữu công nghiệp theo ủy quyền của Chanel trong việc thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam) chưa có yêu cầu dân sự trong vụ án này và sẽ tiến hành khởi kiện trong một vụ án dân sự khác để yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp có đủ căn cứ để chứng minh thiệt hại do hành vi của G gây ra.
Thực tiễn còn có nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp theo ủy quyền của nhãn hiệu bị xâm phạm trong việc thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam (trong tình huống này là Công ty TNHH Tư vấn Sở Hữu Trí Tuệ IPT, gọi tắt là Công ty IPT), cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Công ty TNHH Tư vấn Sở Hữu Trí Tuệ IPT tham gia tố tụng với tư cách bị hại do khách thể của tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” là quyền sở hữu đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý. Công ty IPT là tổ chức bị thiệt hại trực tiếp về uy tín và đe dọa bị thiệt hại về tài sản do hành vi cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trang sức CHANEL đang được bảo hộ tại Việt Nam gây ra. Tuy G chưa bán được sản phẩm nhưng việc thu mua, trưng bày hàng hóa giả mạo nhãn hiệu CHANEL để bán với quy mô thương mại nhằm mục đích thu lợi nhuận đã dẫn đến việc người mua hiểu nhầm về chất lượng sản phẩm, làm suy giảm niềm tin của người tiêu dùng gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của nhãn hiệu trang sức CHANEL và nếu bán được cho khách hàng sẽ gây thiệt hại cho Công ty.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Cần đưa Công ty TNHH Tư vấn Sở Hữu Trí Tuệ IPT tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự. Do hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến khách thể là trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế nhưng cũng gián tiếp gây thiệt hại về uy tín cho Công ty.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tùy vào các tình tiết của vụ án mà việc xác định tư cách tham gia tố tụng của tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp theo ủy quyền của nhãn hiệu bị xâm phạm trong việc thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam khác nhau. Xét về khách thể của tội phạm, hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đã xâm phạm đến hai khách thể là trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và quyền sở hữu đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ tại Việt Nam. Vì vậy, khi xem xét cần phải dựa vào các yếu tố khác nhau như ý thức chủ quan và khách quan, hậu quả trực tiếp đã gây ra để xác định đâu là khách thể trực tiếp, từ đó xác định chính xác tư cách tham gia tố tụng của đương sự.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba bởi những lý do sau:
- Hành vi phạm tội chủ yếu xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, còn chủ sở hữu nhãn hiệu CHANEL bị xâm phạm về quyền sở hữu đối với nhãn hiệu nhưng chưa gây thiệt hại về tài sản do G chưa bán được sản phẩm, không có đủ căn cứ chứng minh cụ thể sẽ gây thiệt hại hay thiệt hại về uy tín do không chứng minh được từ khi mua sản phẩm giả mạo nhãn hiệu CHANEL để bày bán đến khi bị cơ quan chức năng phát hiện, thu giữ đã có người tiêu dùng tiếp cận với 70 sản phẩm trên làm suy giảm niềm tin vào sản phẩm chính hãng chưa nên không xác định được thiệt hại xảy ra. Do vậy, không thể xác định cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ quyền sở hữu về nhãn hiệu trên là bị hại.
- Công ty IPT chỉ được Công ty CHANEL ủy quyền đăng ký và thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam đối với nhãn hiệu trang sức CHANEL, phạm vi ủy quyền bao gồm xác nhận và khẳng định hàng hóa khi có yêu cầu của cơ quan chức năng, tham gia tố tụng để bảo vệ quyền sở hữu đối với nhãn hiệu CHANEL nên Công ty IPT không bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra, vì vậy không phải là bị hại theo quy định tại Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Công ty IPT không bị thiệt hại gì nhưng quyết định của Tòa án lại liên quan đến quyền và nghĩa vụ của Công ty trong việc thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu CHANEL tại Việt Nam nên khi tham gia tố tụng, IPT có nhiệm vụ xác nhận, khẳng định hàng hóa vi phạm có phải là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu CHANEL không, việc phán quyết của Tòa án, nhất là liên quan đến xử lý 70 sản phẩm hàng hóa vi phạm (tịch thu hay trả lại cho bị cáo) sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của Công ty IPT trong quá trình thực hiện hoạt động được CHANEL ủy quyền.
Như vậy, có thể nói trong tình huống cụ thể trên, bản thân G nói riêng và Công ty GS nói chung không được nhượng quyền, ủy quyền kinh doanh, không kinh doanh liên kết trang sức nhãn hiệu CHANEL nên đối tượng G hướng đến trực tiếp là trật tự quản lý nhà nước về quyền bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam nhằm mục đích thu lợi nhuận. Việc kinh doanh hàng hóa (trang sức) giả mạo nhãn hiệu CHANEL của G (tổng trị giá 280.866.000 đồng) với quy mô thương mại nhằm mục đích hưởng lợi nhuận đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về kinh tế nhưng chưa đủ căn cứ chứng minh gây thiệt hại về tài sản cho cá nhân, tổ chức khác; Công ty CHANEL (có trụ sở ở nước ngoài) không bị thiệt hại gì, đã ủy quyền cho Công ty IPT đăng ký quyền bảo hộ nhãn hiệu CHANEL và thực thi pháp luật về bảo vệ nhãn hiệu tại Việt Nam nên trong tình huống cụ thể trên, cần xác định Công ty TNHH Tư vấn Sở Hữu Trí Tuệ IPT là người có quyền lợi liên quan trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể của liên ngành tố tụng trung ương, nên thực tiễn vẫn có sự không thống nhất. Vì vậy, đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp, trao đổi thống nhất việc xác định tư cách tham gia tố tụng trong các vụ án xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp để bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất và bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Trên đây là quan điểm của tác giả về việc xác định tư cách tham gia tố tụng trong vụ án Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, rất mong nhận được ý kiến trao đổi, thảo luận của các đồng chí, đồng nghiệp và hướng dẫn của cấp trên nhằm áp dụng, thực hiện thống nhất theo quy định./.
Trần
Đức
Hiệp
-
Nguyễn
Thị
Như
Ngọc
Viện KSND Khu vực 1
Viện KSND Khu vực 1