Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu - Trao đổi nghiệp vụ » Kiểm Sát Viên viết

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG - Đã xem: 1200

   Giải quyết vụ án dân sự vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự


Thứ ba - 25/04/2023 10:33
 
Nội dung: Theo bản án sơ thẩm, ngày 20/9/2012, anh Ngô Đình T và chị Nguyễn Thị Kim X nhận chuyển nhượng nhà và đất của bà Dương Thị M tại thị trấn D, huyện S, tỉnh T. Khi nhận chuyển nhượng các bên viết Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (giấy có xác nhận của Tổ trưởng tổ dân phố), giá chuyển nhượng là 170.000.000 đồng, các bên thỏa thuận để bà M ở lại nhà đất trên trong thời gian 01 tháng. Nhưng do anh T, chị X chưa thanh toán hết tiền cho bà M nên bà M chưa giao nhà đất cho anh T và chị X.  

 
Ngày 31/10/2012, anh T và chị X chuyển nhượng nhà đất trên cho ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M, hai bên có viết Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất trên đất với giá 350.000.000 đồng, giấy có chữ ký của các bên và chữ ký của Tổ trưởng tổ dân phố, có xác nhận của UBND thị trấn D (nội dung xác nhận chữ ký của Tổ trưởng tổ dân phố là đúng, đề nghị hai bên thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật). Tuy nhiên, do anh T, chị X chưa trả hết tiền cho bà M nên hiện tại bà M vẫn quản lý, sử dụng nhà đất. Vì vậy, ông P và bà M có đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện S yêu cầu anh T và chị X có nghĩa vụ giao toàn bộ nhà đất cho ông P và bà M theo hợp đồng đã ký. Trong trường hợp anh T, chị X không thể giao được nhà đất thì phải trả lại tiền tương đương với giá trị của nhà đất theo giá thị trường do Tòa án quyết định. Đất có tranh chấp theo bản đồ giải thửa 299 diện tích 650,6m2; theo đo đạc hiện trạng đất năm 2012 diện tích 674m2; theo kết quả đo đạc hiện trạng diện tích 674,7m2; nguồn gốc thửa đất do Công ty cổ phần chè T quản lý và giao quyền sử dụng cho bà Dương Thị M. Khi được giao đất bà M được cấp 01 sổ bìa xanh, chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
 
Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện S, quyết định:
 
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tuyên xử:
 
- Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 20/9/2012 giữa bà Dương Thị M, anh Nguyễn Xuân Th, chị Đỗ Thị N với anh Ngô Đình T, chị Nguyễn Thị Kim X và Giấy chuyển nhượng QSD đất và tài sản gắn liền với đất ngày 31/10/2012 giữa anh Ngô Đình T, chị  Nguyễn Thị Kim X với ông Vũ Đình P, bà Bùi Thị Hoàng M vô hiệu.
 
- Buộc anh Ngô Đình T và chị Nguyễn Thị Kim X cùng có trách nhiệm trả cho ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M số tiền chuyển nhượng QSD đất và tài sản gắn liền với đất tương đương giá trị của tài sản là 700.000.000 đồng.
 
- Bà Dương Thị M được quyền sử dụng 674,7m2 đất tại: Thửa 90, tờ bản đồ số 117 thuộc tổ dân phố ĐK, thị trấn D, huyện S, tỉnh T và toàn bộ tài sản gắn liền với đất.  
 
 Bà Dương Thị M có nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất và phải chịu nghĩa vụ về tài chính với nhà nước theo quy định của pháp luật.
 
- Giành quyền khởi kiện vụ án dân sự khác cho anh Ngô Đình T và chị Nguyễn Thị Kim X kiện đòi lại số tiền mua bán chuyển nhượng nhà đất với bà Dương Thị M theo giấy giao tiền chuyển nhượng nhà đất ngày 20/9/2012.
 
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
 
Quá trình kiểm sát bản án và nghiên cứu hồ, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T thấy: Ngày 20/9/2012, bà Dương Thị M chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất và tài sản gắn liền trên đất cho anh Ngô Đình T và chị Nguyễn Thị Kim X với giá 170.000.000 đồng, anh T, chị X mới trả được 50.000.000 đồng, hẹn trong 01 tháng sẽ trả nốt số tiền còn lại là 120.000.000 đồng, hai bên thoả thuận cho bà M mượn lại nhà ở trong thời gian 01 tháng chờ con trai bà M xây xong nhà thì chuyển bà M về tại tỉnh QN ở. Đến hẹn anh T, chị X không trả hết tiền cho bà M, nhưng ngày 31/10/2012 anh T và chị X chuyển lại nhà đất trên cho ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đất và tài sản gắn liền với đất giữa các bên có viết giấy tờ, có xác nhận của Tổ trưởng tổ dân phố. Trước khi thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông P, bà M thì diện tích đất trên vẫn thuộc quyền sử dụng của bà M, chưa thuộc quyền sử dụng của anh T, chị X.        
 
Thời điểm bà M viết Giấy chuyển nhượng đất và tài sản gắn liền với đất cho anh T và chị X thì bà M chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà M chưa giao nhà cho anh T, chị X và anh T, chị X cũng chưa trả đủ tiền cho bà M theo thoả thuận; anh T, chị X cũng chưa làm thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng anh T và chị X lại chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho ông P và bà M. Do đó việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trên của các đương sự không đúng quy định tại khoản 1, Điều 106 Luật Đất đai năm 2003.
 
Việc Toà án nhân dân huyện S tuyên xử Giấy chuyển nhượng quyền sử đất và tài sản gắn liền với đất ngày 31/10/2012 giữa anh Ngô Đình T và chị Nguyễn Thị Kim X với ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M vô hiệu là có căn cứ.
 
Tuy nhiên, việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu chưa đúng quy định của pháp luật, bởi lẽ: Khi viết Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ông P và bà M biết rõ nguồn gốc đất do anh T và chị X nhận chuyển nhượng của bà M ngày 20/9/2012, do anh T, chị X chưa trả hết tiền nên bà M vẫn đang quản lý, sử dụng nhà đất, chưa bàn giao cho anh T, chị X, chưa làm các thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, anh T và chị X chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng giữa anh T, chị X với ông P, bà M thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Như vậy các bên đương sự đều có lỗi, nhưng Tòa cấp sơ thẩm xác định lỗi hoàn toàn thuộc về anh T và chị X buộc anh T và chị X phải chịu trách nhiệm toàn bộ lỗi do hợp đồng bị tuyên vô hiệu là không đúng quy định tại khoản 2, khoản 4, Điều 131 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.
 
Khi tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu, về nguyên tắc chung khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu “… thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”, theo quy định tại khoản 2,  Điều 131 Bộ luật dân sự và xác định thiệt hại “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”, theo khoản 4, Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015.
 
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông P và bà M trình bày nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất với anh T và chị X giá chuyển nhượng là 350.000.000 đồng. Anh T, chị X trình bày do hoàn cảnh, anh chị có vay của ông P, bà M số tiền 100.000.000 đồng chữa bệnh cho con gái, sau đó không trả được nên ông P đã yêu cầu anh T chuyển nhượng lại nhà đất trên. Qua trình bày của các đương sự có mâu thuẫn trong việc giữa các bên viết Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giá trị nhà đất, cũng như không có căn cứ xác định anh T và chị X đã nhận đủ số tiền 350.000.000 đồng như nguyên đơn trình bày, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc anh T và chị X có nghĩa vụ trả lại tiền cho ông P và bà M tương đương giá trị tài sản theo kết quả định giá ngày 11/8/2022 với giá trị 700.000.000 đồng, chịu chi phí thẩm định và định giá tài sản 6.045.000 đồng, án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch 300.000 đồng và án phí dân sự có giá ngạch 32.000.000 đồng là không có căn cứ, ảnh hưởng đến quyền lợi của anh T và chị X.
 
Ngoài ra, nguyên đơn ông Vũ Đình P và bà Bùi Thị Hoàng M có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh Ngô Đình T và chị Nguyễn Thị Kim X có nghĩa vụ giao trả toàn bộ nhà đất theo đúng nội dung Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 31/10/2012. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà M) không có yêu cầu độc lập nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử: Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 20/9/2012 giữa bà Dương Thị M, anh Nguyễn Xuân T, chị Đỗ Thị N với anh Ngô Đình T và chị Nguyễn Thị Kim X vô hiệu; bà M được quyền sử dụng 674,7m2 đất... là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, vi phạm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự.
 
Khoản 1, Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự: “1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”.
 
Từ những vi phạm, thiếu sót trong việc thu thập tài liệu, đánh giá chứng cứ và việc giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện dẫn đến việc ra bản án không đúng quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, Viện KSND tỉnh T đã ban hành kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện S theo hướng huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm./.
 
                                     Ngô Thị Vỹ - Phòng 9 Viện KSND tỉnh Tuyên Quang
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết





 

Scroll to top