Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu - Trao đổi nghiệp vụ

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG - Đã xem: 10452

   Một vài trao đổi về quyền yêu cầu thu thập chứng cứ và hoạt động thu thập chứng cứ của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015


Thứ tư - 16/11/2016 13:56
         
          Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã quy định về quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong việc thu thập chứng cứ, theo khoản 4 Điều 85 BLTTDS thì “Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm....

          BLTTDS năm 2015 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 tiếp tục kế thừa quy định trên, đồng thời có sự sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 58 và khoản 6 Điều 97, theo đó, VKSND có thể tham gia vào hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự dưới hai hình thức: Thứ nhất là yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, thứ hai là tự mình thu thập chứng cứ.

          Hoạt động thu thập chứng cứ của VKSND nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện, tìm ra căn cứ vững chắc để giải quyết vụ việc dân sự, tuy nhiên, hoạt động thu thập chứng cứ của VKSND có sự khác biệt so với các chủ thể khác, như Tòa án hoặc đương sự được bắt đầu thu thập chứng cứ ngay từ khi, thậm chí từ trước khi yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự được thụ lý còn hoạt động thu thập chứng cứ, yêu cầu thu thập chứng cứ của VKSND chỉ được tiến hành sau khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc sau khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Điều này cũng là dễ hiểu bởi chỉ từ thời điểm đó Viện kiểm sát mới nắm bắt được các tình tiết của vụ việc dân sự thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, phát hiện được những vấn đề nào còn thiếu tài liệu, chứng cứ để giải quyết, từ đó đề ra kế hoạch kiểm sát phù hợp đối với từng vụ việc. Cụ thể:

          Thứ nhất, về quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ: Theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTDS: " Kiểm sát viên khi được Viện trưởng phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự Kiểm sát viên có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự", và tại  Điều 22 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT- VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao quy định " Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu Kiểm sát viên xét thấy cần xác minh, thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật thì Kiểm sát viên gửi văn bản yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ". Chẳng hạn, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự, Kiểm sát viên thấy cần thiết phải giám định chữ ký, chữ viết của đương sự, cần xác minh về tình trạng cư trú của người liên quan, thu thập thêm lời khai của những người làm chứng để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án dân sự v.v..  thì có thể ban hành văn bản yêu cầu Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ.

          Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Sau khi nhận được văn bản yêu cầu của Kiểm sát viên, nếu Tòa án cho rằng không cần thiết phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ hoặc với lý do là không thể thực hiện được yêu cầu của Viện kiểm sát thì đến ngày hết thời hạn mở phiên tòa, phiên họp theo quyết định của Tòa án, Thẩm phán chỉ cần thông báo cho Kiểm sát viên về việc không thể thực hiện theo yêu cầu của văn bản trên. Ngoài ra, xét thấy trong thời hạn chuẩn bị cho phiên tòa ở cấp sơ thẩm thông thường là 01 tháng, chuẩn bị cho phiên họp là 15 ngày (tính cả thời gian Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ), chưa kể nếu là vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn thời hạn này sẽ lại càng ngắn hơn, thì việc tiến hành thu thập thêm tài liệu, chứng cứ cho những vụ việc phức tạp, nhiều đương sự đối với Tòa án lại càng khó khăn và nhiều trường hợp không thể thực hiện kịp.

          Tại phiên tòa, phiên họp cũng vậy, trường hợp Kiểm sát viên thấy cần thiết phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ nhưng Hội đồng xét xử xem xét quyết định không chấp nhận yêu cầu thu thập này thì dù không nhất trí, Kiểm sát viên vẫn phải tiếp tục tham gia phiên tòa, phiên họp.

          Như vậy không phải trường hợp nào Viện kiểm sát có yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập thêm chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự Tòa án đều bắt buộc phải thực hiện. Việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu thu thập chứng cứ của Kiểm sát viên là tùy thuộc vào việc nhận định, đánh giá của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử. Chưa kể quy định trên sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc cung cấp chứng cứ - chứng minh cũng như nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự. Theo đó, nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện thuộc về đương sự, Tòa án chỉ có trách nhiệm hỗ trợ cho đương sự trong một số trường hợp. Theo quy định của BLTTDS năm 2015 mọi chứng cứ đều cần được công bố công khai và đảm bảo cho quyền tiếp cận và nghiên cứu tài liệu chứng cứ của tất cả các đương sự. Nếu như sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ,  VKSND yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập, bổ sung thêm chứng cứ thì những chứng cứ Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập thêm đương sự lại không được tiếp cận và không được công khai chứng cứ đó. 

          Thứ hai, về  hoạt động tự mình thu thập chứng cứ của VKSND: Theo quy định tại khoản 6 Điều 97 BLTTDS năm 2015, " Viện kiểm sát thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm", tức là VKSND có quyền tự mình thu thập chứng cứ trong trường hợp cần thiết để phục vụ cho việc kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án. Mục đích của việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát trong trường hợp này là để phục vụ công tác kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án.
 Điều 280 BLTTDS đã giới hạn về thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát:

          1.Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 01 tháng, kể từ ngày tuyên án...

          2. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp  đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được quyết định.

          Kể từ thời hạn nêu trên, VKSND tập trung nghiên cứu bản án, quyết định đối chiếu với các quy định của pháp luật để xác định Tòa án đã giải quyết đúng pháp luật hay chưa, đồng thời tập trung vào những chứng cứ phục vụ cho quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát, tức là tìm và chỉ ra được những căn cứ chứng minh Tòa án có vi phạm về pháp luật nội dung hoặc pháp luật tố tụng, hoặc cả hai trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm.

          Quyền tự mình thu thập chứng cứ nêu trên của Viện kiểm sát là rất cần thiết, bởi không phải trường hợp nào các vi phạm trong việc giải quyết vụ việc dân sự cũng thể hiện rõ trong hồ sơ, thể hiện rõ trong các bản án, quyết định. Thông qua nghiên cứu hồ sơ và kiểm sát bản án, quyết định trong giai đoạn trước, trong và sau khi xét xử, Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa có thể mới chỉ phát hiện ra được dấu hiệu của việc vi phạm pháp luật, chưa thể có cơ sở vững chắc để Viện kiểm sát ban hành kháng nghị, cũng như đảm bảo cho việc bảo vệ kháng nghị tại phiên tòa phúc thẩm.

          Với thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát theo luật định là rất ngắn, nhất là thời hạn kháng nghị quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của của Tòa án. Đối với thời hạn kháng nghị bản án, quyết định của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp thì càng hạn hẹp hơn, trường hợp khi nghiên cứu bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật Viện kiểm sát cấp tỉnh phải ban hành văn bản yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm chuyển hồ sơ vụ việc dân sự, văn bản yêu cầu chuyển hồ sơ của Viện kiểm sát được gửi qua đường bưu điện, đối với những huyện xa trung tâm tỉnh phải mất nhiều ngày văn bản mới đến Tòa án được yêu cầu và theo quy định tại điểm b, điểm c khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT- VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao thì " Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu"  và " Chậm nhất là ngay sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 280 ... Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Tòa án đã chuyển hồ sơ cho mình " như vậy với thời hạn kháng nghị như vậy sẽ không đảm bảo được về thời gian để Viện kiểm sát tự mình tiến hành thu thập chứng cứ, nhất là đối với các trường hợp Viện kiểm sát phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền liên quan đến giải quyết đất đai cung cấp hồ sơ, tài liệu đang lưu giữ hoặc phải xem xét xác định lại ranh giới quyền sử dụng đất.v.v.. Do đó cần quy định thời hạn kháng nghị theo ngày làm việc để Viện kiểm sát thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát theo luật định.

          Có thể lấy ví dụ thông qua thực tiễn kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, Viện kiểm sát đã tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ đối với một số vụ án sau:

          - Vụ kiện "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản" giữa nguyên đơn ông S, bị đơn chị L:

         Theo Quyết định số 03/2014/QĐST- DS ngày 12/6/2014, Tòa án nhân dân huyện L đã quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thụ lý số 01/2014/TLST-DS ngày 25/3/2014 với lý do hết thời hiệu khởi kiện. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, lời khai của nguyên đơn đã thể hiện trước khi nộp đơn đến Tòa án, nguyên đơn đã nộp đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân giải quyết; VKSND đã tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ, xác định ngày 06/9/2012 ông S có đơn đề nghị UBND xã H giải quyết về việc đòi nợ chị L số tiền cho vay ngày 10/6/2011. Căn cứ các tài liệu Viện kiểm sát thu thập đã có cơ sở xác định thời hiệu yêu cầu khởi kiện vẫn còn. Để đảm bảo quyền khởi kiện của đương sự VKSND đã ban hành kháng nghị phúc thẩm số 04 ngày 20/6/2014 đề nghị Hội đồng phúc thẩm TAND cấp tỉnh hủy quyết định đình chỉ nêu trên, chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. Tại Quyết định số 19/2014/QĐ-PT ngày 18/7/2014, TAND tỉnh đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của VKSND.

          Giả sử trong trường hợp nêu trên, nếu VKSND chỉ dựa vào hồ sơ để kháng nghị thì sẽ không đảm bảo căn cứ; khi tiến hành xét xử, Tòa án cũng không có cơ sở để quyết định chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát. Như vậy, thông qua hoạt động thu thập chứng cứ, VKSND mới có cơ sở chắc chắn để ban hành kháng nghị cũng như bảo vệ quan điểm của mình tại phiên tòa xét xử phúc thẩm.

          - Vụ “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn ông L và bị đơn bà P:

          Tại Bản án số 54/2015/DS-ST ngày 30/9/2015, TAND huyện Y đã tuyên nghĩa vụ trả nợ cho bà P dựa trên giấy vay tiền do nguyên đơn là ông L cung cấp, mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án bà P đang vắng mặt tại địa phương nhưng Tòa án áp dụng các quy định về "cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ" để giải quyết. Qua nghiên cứu hồ sơ, VKSND nhận thấy thời điểm vắng mặt khỏi nơi cư trú của bà P chưa được Tòa án cấp sơ thẩm làm rõ. VKSND đã tiến hành xác minh với chính quyền địa phương và chồng của bà P, xác định thời điểm bà P vắng mặt là từ trước khi TAND thụ lý vụ án, do vậy không có căn cứ áp dụng các quy định về "cố tình trốn tránh nghĩa vụ trả nợ" cũng như chứng minh thủ tục niêm yết công khai không thể có hiệu quả. Căn cứ vào các tài liệu thu thập được, VKSND đã kháng nghị bản án theo thủ tục phúc thẩm, đề nghị Tòa án hủy bản án trên. Bản án số 54 nêu trên không chỉ áp dụng sai pháp luật mà còn không đảm thi hành sau khi án có hiệu lực. Như vậy trong trường hợp này, VKSND không chỉ bảo vệ quyền lợi cho một bên đương sự là bà P mà cho cả hai bên, bao gồm cả ông L.
 
          - Vụ “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn ông T, bà L và bị đơn ông T, bà Q:

          Tại bản án số 39/2015/DS-ST ngày 23/4/2015, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông T phải có nghĩa vụ trả nợ cho vợ chồng ông T bà L, nhưng không chấp nhận yêu cầu chia nghĩa vụ trả nợ của nguyên đơn mà chỉ tuyên nghĩa vụ trả nợ đối với ông T, và cũng chỉ mình ông T phải chịu án phí. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, VKSND phát hiện bị đơn có dấu hiệu thỏa thuận nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Viện kiểm sát đã tiến hành xác minh tại Chi cục thi hành án dân sự, xác minh tại địa phương nơi bị đơn cư trú cũng như nơi làm việc của bà Q cho thấy ông T còn rất nhiều khoản nợ chưa được thi hành, trong khi gia đình ông T chỉ còn khoản thu nhập duy nhất là từ lương hàng tháng của bà Q, còn ông T đã dừng kinh doanh từ năm trước. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập, VKSND đã kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên theo thủ tục phúc thẩm đề nghị sửa án sơ thẩm buộc bà Q phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho nguyên đơn và đã được TAND cấp tỉnh chấp nhận kháng nghị.

          Giả sử nếu trong trường hợp này, VKSND không có quyền thu thập chứng cứ thì sẽ khó bảo vệ thành công quan điểm kháng nghị tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, kháng nghị của Viện kiểm sát đã bảo vệ quyền lợi cho các đương sự cũng như cho Nhà nước khi mà đương sự cố tình trốn tránh nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp này, VKSND thu thập chứng cứ, phục vụ kháng nghị, không chỉ bảo vệ quyền lợi cho hai bên nguyên đơn bị đơn, mà cho cả người thứ ba và cho cả lợi ích của Nhà nước.

          Để thực hiện tốt quyền thu thập chứng cứ của VKSND, cần thiết phải quy định tương ứng với đó là trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân cho Viện kiểm sát. Nếu như không được quy định về quyền này, hoạt động xác minh, thu thập chứng của của VKSND sẽ gặp khó khăn, đặc biệt trong những trường hợp đương sự, cơ quan, tổ chức nơi đang lưu giữ hồ sơ, tài liệu bất hợp tác. Nếu chỉ dựa vào quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ thì Viện kiểm sát dễ rơi vào thế bị động, nhất là khi thời hạn kháng nghị chỉ hạn hẹp trong tối đa 01 tháng đối với Viện kiểm sát cấp tỉnh như đã nêu ở trên, thêm vào đó, việc yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ để phục vụ cho việc hủy, sửa bản án, quyết định của chính mình sẽ không đảm bảo được tính khách quan trong hoạt động thu thập chứng cứ nói chung và tài liệu, chứng cứ thu được nói riêng.

          Trên đây là một số trao đổi về quyền yêu cầu thu thập chứng cứ và hoạt động thu thập chứng cứ của VKSND trong tố tụng dân sự. Qua bài viết này, tác giả đã nêu lên một số điểm bất cập trong quy định về quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ cũng như sự cần thiết của quy định về quyền tự mình thu thập tài liệu chứng cứ để phục vụ cho việc kháng nghị của VKSND trong tố tụng dân sự. Trong phạm vi bài viết, tôi chỉ đề cập và phân tích hoạt động này của VKSND trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của từ phía bạn đọc.
 
Nguyễn Thị An        
Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết





 

Scroll to top