Bộ
luật
tố
tụng
dân
sự
(BLTTDS)
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2011
đã
quy
định
về
quyền
hạn
của
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
(VKSND)
trong
việc
thu
thập
chứng
cứ,
theo
khoản
4
Điều
85
BLTTDS
thì
“Viện
kiểm
sát
có
quyền
yêu
cầu
đương
sự,
cá
nhân,
cơ
quan,
tổ
chức
cung
cấp
hồ
sơ,
tài
liệu,
vật
chứng
để
bảo
đảm
cho
việc
thực
hiện
thẩm
quyền
kháng
nghị
theo
thủ
tục
phúc
thẩm...”.
BLTTDS
năm
2015
được
Quốc
hội
khóa
XIII,
kỳ
họp
thứ
10
thông
qua
ngày
25
tháng
11
năm
2015
có
hiệu
lực
thi
hành
từ
ngày
01/7/2016
tiếp
tục
kế
thừa
quy
định
trên,
đồng
thời
có
sự
sửa
đổi,
bổ
sung
tại
khoản
3
Điều
58
và
khoản
6
Điều
97,
theo
đó,
VKSND
có
thể
tham
gia
vào
hoạt
động
thu
thập
chứng
cứ
trong
tố
tụng
dân
sự
dưới
hai
hình
thức:
Thứ
nhất
là
yêu
cầu
Tòa
án
thu
thập
chứng
cứ,
thứ
hai
là
tự
mình
thu
thập
chứng
cứ.
Hoạt
động
thu
thập
chứng
cứ
của
VKSND
nhằm
làm
sáng
tỏ
các
tình
tiết,
sự
kiện,
tìm
ra
căn
cứ
vững
chắc
để
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự,
tuy
nhiên,
hoạt
động
thu
thập
chứng
cứ
của
VKSND
có
sự
khác
biệt
so
với
các
chủ
thể
khác,
như
Tòa
án
hoặc
đương
sự
được
bắt
đầu
thu
thập
chứng
cứ
ngay
từ
khi,
thậm
chí
từ
trước
khi
yêu
cầu
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự
được
thụ
lý
còn
hoạt
động
thu
thập
chứng
cứ,
yêu
cầu
thu
thập
chứng
cứ
của
VKSND
chỉ
được
tiến
hành
sau
khi
Tòa
án
có
quyết
định
đưa
vụ
án
ra
xét
xử
hoặc
sau
khi
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
ra
bản
án,
quyết
định
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự.
Điều
này
cũng
là
dễ
hiểu
bởi
chỉ
từ
thời
điểm
đó
Viện
kiểm
sát
mới
nắm
bắt
được
các
tình
tiết
của
vụ
việc
dân
sự
thông
qua
việc
nghiên
cứu
hồ
sơ,
phát
hiện
được
những
vấn
đề
nào
còn
thiếu
tài
liệu,
chứng
cứ
để
giải
quyết,
từ
đó
đề
ra
kế
hoạch
kiểm
sát
phù
hợp
đối
với
từng
vụ
việc.
Cụ
thể:
Thứ
nhất,
về
quyền
yêu
cầu
Tòa
án
thu
thập
chứng
cứ:
Theo
quy
định
tại
khoản
3
Điều
58
BLTTDS:
"
Kiểm
sát
viên
khi
được
Viện
trưởng
phân
công
thực
hiện
kiểm
sát
việc
tuân
theo
pháp
luật
trong
tố
tụng
dân
sự
Kiểm
sát
viên
có
quyền
yêu
cầu
Tòa
án
xác
minh,
thu
thập
chứng
cứ
trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự",
và
tại
Điều
22
Thông
tư
liên
tịch
số
02/2016/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC
ngày
31/8/2016
của
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao
và
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
quy
định
"
Trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự,
nếu
Kiểm
sát
viên
xét
thấy
cần
xác
minh,
thu
thập
thêm
chứng
cứ
để
bảo
đảm
cho
việc
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự
kịp
thời,
đúng
pháp
luật
thì
Kiểm
sát
viên
gửi
văn
bản
yêu
cầu
Tòa
án
xác
minh,
thu
thập
chứng
cứ".
Chẳng
hạn,
sau
khi
nghiên
cứu
hồ
sơ
vụ
việc
dân
sự,
Kiểm
sát
viên
thấy
cần
thiết
phải
giám
định
chữ
ký,
chữ
viết
của
đương
sự,
cần
xác
minh
về
tình
trạng
cư
trú
của
người
liên
quan,
thu
thập
thêm
lời
khai
của
những
người
làm
chứng
để
đảm
bảo
cho
việc
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
v.v..
thì
có
thể
ban
hành
văn
bản
yêu
cầu
Tòa
án
tiến
hành
xác
minh,
thu
thập
chứng
cứ.
Tuy
nhiên,
vấn
đề
đặt
ra
là:
Sau
khi
nhận
được
văn
bản
yêu
cầu
của
Kiểm
sát
viên,
nếu
Tòa
án
cho
rằng
không
cần
thiết
phải
xác
minh,
thu
thập
thêm
chứng
cứ
hoặc
với
lý
do
là
không
thể
thực
hiện
được
yêu
cầu
của
Viện
kiểm
sát
thì
đến
ngày
hết
thời
hạn
mở
phiên
tòa,
phiên
họp
theo
quyết
định
của
Tòa
án,
Thẩm
phán
chỉ
cần
thông
báo
cho
Kiểm
sát
viên
về
việc
không
thể
thực
hiện
theo
yêu
cầu
của
văn
bản
trên.
Ngoài
ra,
xét
thấy
trong
thời
hạn
chuẩn
bị
cho
phiên
tòa
ở
cấp
sơ
thẩm
thông
thường
là
01
tháng,
chuẩn
bị
cho
phiên
họp
là
15
ngày
(tính
cả
thời
gian
Viện
kiểm
sát
nghiên
cứu
hồ
sơ),
chưa
kể
nếu
là
vụ
án
được
giải
quyết
theo
thủ
tục
rút
gọn
thời
hạn
này
sẽ
lại
càng
ngắn
hơn,
thì
việc
tiến
hành
thu
thập
thêm
tài
liệu,
chứng
cứ
cho
những
vụ
việc
phức
tạp,
nhiều
đương
sự
đối
với
Tòa
án
lại
càng
khó
khăn
và
nhiều
trường
hợp
không
thể
thực
hiện
kịp.
Tại
phiên
tòa,
phiên
họp
cũng
vậy,
trường
hợp
Kiểm
sát
viên
thấy
cần
thiết
phải
xác
minh,
thu
thập
thêm
chứng
cứ
nhưng
Hội
đồng
xét
xử
xem
xét
quyết
định
không
chấp
nhận
yêu
cầu
thu
thập
này
thì
dù
không
nhất
trí,
Kiểm
sát
viên
vẫn
phải
tiếp
tục
tham
gia
phiên
tòa,
phiên
họp.
Như
vậy
không
phải
trường
hợp
nào
Viện
kiểm
sát
có
yêu
cầu
Tòa
án
xác
minh,
thu
thập
thêm
chứng
cứ
trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự
Tòa
án
đều
bắt
buộc
phải
thực
hiện.
Việc
chấp
nhận
hay
không
chấp
nhận
yêu
cầu
thu
thập
chứng
cứ
của
Kiểm
sát
viên
là
tùy
thuộc
vào
việc
nhận
định,
đánh
giá
của
Thẩm
phán
và
của
Hội
đồng
xét
xử.
Chưa
kể
quy
định
trên
sẽ
mâu
thuẫn
với
nguyên
tắc
cung
cấp
chứng
cứ
-
chứng
minh
cũng
như
nguyên
tắc
tranh
tụng
trong
tố
tụng
dân
sự.
Theo
đó,
nghĩa
vụ
chứng
minh
cho
yêu
cầu
khởi
kiện
thuộc
về
đương
sự,
Tòa
án
chỉ
có
trách
nhiệm
hỗ
trợ
cho
đương
sự
trong
một
số
trường
hợp.
Theo
quy
định
của
BLTTDS
năm
2015
mọi
chứng
cứ
đều
cần
được
công
bố
công
khai
và
đảm
bảo
cho
quyền
tiếp
cận
và
nghiên
cứu
tài
liệu
chứng
cứ
của
tất
cả
các
đương
sự.
Nếu
như
sau
phiên
họp
kiểm
tra
việc
giao
nộp,
tiếp
cận,
công
khai
chứng
cứ,
VKSND
yêu
cầu
Tòa
án
tiến
hành
thu
thập,
bổ
sung
thêm
chứng
cứ
thì
những
chứng
cứ
Viện
kiểm
sát
yêu
cầu
Tòa
án
xác
minh,
thu
thập
thêm
đương
sự
lại
không
được
tiếp
cận
và
không
được
công
khai
chứng
cứ
đó.
Thứ
hai,
về
hoạt
động
tự
mình
thu
thập
chứng
cứ
của
VKSND:
Theo
quy
định
tại
khoản
6
Điều
97
BLTTDS
năm
2015,
"
Viện
kiểm
sát
thu
thập
tài
liệu,
chứng
cứ
để
bảo
đảm
cho
việc
thực
hiện
thẩm
quyền
kháng
nghị
theo
thủ
tục
phúc
thẩm,
giám
đốc
thẩm,
tái
thẩm",
tức
là
VKSND
có
quyền
tự
mình
thu
thập
chứng
cứ
trong
trường
hợp
cần
thiết
để
phục
vụ
cho
việc
kháng
nghị
đối
với
bản
án,
quyết
định
của
Tòa
án.
Mục
đích
của
việc
thu
thập
tài
liệu,
chứng
cứ
của
Viện
kiểm
sát
trong
trường
hợp
này
là
để
phục
vụ
công
tác
kháng
nghị
phúc
thẩm
đối
với
bản
án,
quyết
định
của
Tòa
án.
Điều
280
BLTTDS
đã
giới
hạn
về
thời
hạn
kháng
nghị
phúc
thẩm
của
Viện
kiểm
sát:
1.Thời
hạn
kháng
nghị
đối
với
bản
án
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
của
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp
là
15
ngày,
của
Viện
kiểm
sát
cấp
trên
trực
tiếp
là
01
tháng,
kể
từ
ngày
tuyên
án...
2.
Thời
hạn
kháng
nghị
của
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp
đối
với
quyết
định
tạm
đình
chỉ,
quyết
định
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
là
07
ngày,
của
Viện
kiểm
sát
cấp
trên
trực
tiếp
là
10
ngày,
kể
từ
ngày
Viện
kiểm
sát
nhận
được
quyết
định.
Kể
từ
thời
hạn
nêu
trên,
VKSND
tập
trung
nghiên
cứu
bản
án,
quyết
định
đối
chiếu
với
các
quy
định
của
pháp
luật
để
xác
định
Tòa
án
đã
giải
quyết
đúng
pháp
luật
hay
chưa,
đồng
thời
tập
trung
vào
những
chứng
cứ
phục
vụ
cho
quan
điểm
kháng
nghị
của
Viện
kiểm
sát,
tức
là
tìm
và
chỉ
ra
được
những
căn
cứ
chứng
minh
Tòa
án
có
vi
phạm
về
pháp
luật
nội
dung
hoặc
pháp
luật
tố
tụng,
hoặc
cả
hai
trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
án
ở
cấp
sơ
thẩm.
Quyền
tự
mình
thu
thập
chứng
cứ
nêu
trên
của
Viện
kiểm
sát
là
rất
cần
thiết,
bởi
không
phải
trường
hợp
nào
các
vi
phạm
trong
việc
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự
cũng
thể
hiện
rõ
trong
hồ
sơ,
thể
hiện
rõ
trong
các
bản
án,
quyết
định.
Thông
qua
nghiên
cứu
hồ
sơ
và
kiểm
sát
bản
án,
quyết
định
trong
giai
đoạn
trước,
trong
và
sau
khi
xét
xử,
Kiểm
sát
viên
được
phân
công
tham
gia
phiên
tòa
có
thể
mới
chỉ
phát
hiện
ra
được
dấu
hiệu
của
việc
vi
phạm
pháp
luật,
chưa
thể
có
cơ
sở
vững
chắc
để
Viện
kiểm
sát
ban
hành
kháng
nghị,
cũng
như
đảm
bảo
cho
việc
bảo
vệ
kháng
nghị
tại
phiên
tòa
phúc
thẩm.
Với
thời
hạn
kháng
nghị
của
Viện
kiểm
sát
theo
luật
định
là
rất
ngắn,
nhất
là
thời
hạn
kháng
nghị
quyết
định
tạm
đình
chỉ,
quyết
định
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
của
của
Tòa
án.
Đối
với
thời
hạn
kháng
nghị
bản
án,
quyết
định
của
Viện
kiểm
sát
cấp
trên
trực
tiếp
thì
càng
hạn
hẹp
hơn,
trường
hợp
khi
nghiên
cứu
bản
án,
quyết
định
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
phát
hiện
có
dấu
hiệu
vi
phạm
pháp
luật
Viện
kiểm
sát
cấp
tỉnh
phải
ban
hành
văn
bản
yêu
cầu
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
chuyển
hồ
sơ
vụ
việc
dân
sự,
văn
bản
yêu
cầu
chuyển
hồ
sơ
của
Viện
kiểm
sát
được
gửi
qua
đường
bưu
điện,
đối
với
những
huyện
xa
trung
tâm
tỉnh
phải
mất
nhiều
ngày
văn
bản
mới
đến
Tòa
án
được
yêu
cầu
và
theo
quy
định
tại
điểm
b,
điểm
c
khoản
1
Điều
5
Thông
tư
liên
tịch
số
02/2016/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC
ngày
31/8/2016
của
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao
và
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
thì
"
Trong
thời
hạn
03
ngày
làm
việc
kể
từ
ngày
nhận
được
yêu
cầu
Tòa
án
chuyển
hồ
sơ
cho
Viện
kiểm
sát
có
văn
bản
yêu
cầu"
và
"
Chậm
nhất
là
ngay
sau
khi
hết
thời
hạn
kháng
nghị
quy
định
tại
khoản
1
và
khoản
2
Điều
280
...
Viện
kiểm
sát
phải
trả
hồ
sơ
cho
Tòa
án
đã
chuyển
hồ
sơ
cho
mình
"
như
vậy
với
thời
hạn
kháng
nghị
như
vậy
sẽ
không
đảm
bảo
được
về
thời
gian
để
Viện
kiểm
sát
tự
mình
tiến
hành
thu
thập
chứng
cứ,
nhất
là
đối
với
các
trường
hợp
Viện
kiểm
sát
phải
yêu
cầu
cơ
quan
có
thẩm
quyền
liên
quan
đến
giải
quyết
đất
đai
cung
cấp
hồ
sơ,
tài
liệu
đang
lưu
giữ
hoặc
phải
xem
xét
xác
định
lại
ranh
giới
quyền
sử
dụng
đất.v.v..
Do
đó
cần
quy
định
thời
hạn
kháng
nghị
theo
ngày
làm
việc
để
Viện
kiểm
sát
thực
hiện
có
hiệu
quả
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
Viện
kiểm
sát
theo
luật
định.
Có
thể
lấy
ví
dụ
thông
qua
thực
tiễn
kiểm
sát
việc
giải
quyết
các
vụ
việc
dân
sự,
Viện
kiểm
sát
đã
tiến
hành
thu
thập
tài
liệu,
chứng
cứ
đối
với
một
số
vụ
án
sau:
-
Vụ
kiện
"Tranh
chấp
hợp
đồng
vay
tài
sản"
giữa
nguyên
đơn
ông
S,
bị
đơn
chị
L:
Theo
Quyết
định
số
03/2014/QĐST-
DS
ngày
12/6/2014,
Tòa
án
nhân
dân
huyện
L
đã
quyết
định
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
thụ
lý
số
01/2014/TLST-DS
ngày
25/3/2014
với
lý
do
hết
thời
hiệu
khởi
kiện.
Qua
nghiên
cứu
hồ
sơ
vụ
án,
lời
khai
của
nguyên
đơn
đã
thể
hiện
trước
khi
nộp
đơn
đến
Tòa
án,
nguyên
đơn
đã
nộp
đơn
yêu
cầu
Ủy
ban
nhân
dân
giải
quyết;
VKSND
đã
tiến
hành
thu
thập
tài
liệu
chứng
cứ,
xác
định
ngày
06/9/2012
ông
S
có
đơn
đề
nghị
UBND
xã
H
giải
quyết
về
việc
đòi
nợ
chị
L
số
tiền
cho
vay
ngày
10/6/2011.
Căn
cứ
các
tài
liệu
Viện
kiểm
sát
thu
thập
đã
có
cơ
sở
xác
định
thời
hiệu
yêu
cầu
khởi
kiện
vẫn
còn.
Để
đảm
bảo
quyền
khởi
kiện
của
đương
sự
VKSND
đã
ban
hành
kháng
nghị
phúc
thẩm
số
04
ngày
20/6/2014
đề
nghị
Hội
đồng
phúc
thẩm
TAND
cấp
tỉnh
hủy
quyết
định
đình
chỉ
nêu
trên,
chuyển
hồ
sơ
cho
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
giải
quyết
lại
vụ
án.
Tại
Quyết
định
số
19/2014/QĐ-PT
ngày
18/7/2014,
TAND
tỉnh
đã
chấp
nhận
toàn
bộ
kháng
nghị
của
VKSND.
Giả
sử
trong
trường
hợp
nêu
trên,
nếu
VKSND
chỉ
dựa
vào
hồ
sơ
để
kháng
nghị
thì
sẽ
không
đảm
bảo
căn
cứ;
khi
tiến
hành
xét
xử,
Tòa
án
cũng
không
có
cơ
sở
để
quyết
định
chấp
nhận
kháng
nghị
của
Viện
kiểm
sát.
Như
vậy,
thông
qua
hoạt
động
thu
thập
chứng
cứ,
VKSND
mới
có
cơ
sở
chắc
chắn
để
ban
hành
kháng
nghị
cũng
như
bảo
vệ
quan
điểm
của
mình
tại
phiên
tòa
xét
xử
phúc
thẩm.
-
Vụ
“Tranh
chấp
hợp
đồng
vay
tài
sản”
giữa
nguyên
đơn
ông
L
và
bị
đơn
bà
P:
Tại
Bản
án
số
54/2015/DS-ST
ngày
30/9/2015,
TAND
huyện
Y
đã
tuyên
nghĩa
vụ
trả
nợ
cho
bà
P
dựa
trên
giấy
vay
tiền
do
nguyên
đơn
là
ông
L
cung
cấp,
mặc
dù
trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
án
bà
P
đang
vắng
mặt
tại
địa
phương
nhưng
Tòa
án
áp
dụng
các
quy
định
về
"cố
tình
trốn
tránh
nghĩa
vụ
trả
nợ"
để
giải
quyết.
Qua
nghiên
cứu
hồ
sơ,
VKSND
nhận
thấy
thời
điểm
vắng
mặt
khỏi
nơi
cư
trú
của
bà
P
chưa
được
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
làm
rõ.
VKSND
đã
tiến
hành
xác
minh
với
chính
quyền
địa
phương
và
chồng
của
bà
P,
xác
định
thời
điểm
bà
P
vắng
mặt
là
từ
trước
khi
TAND
thụ
lý
vụ
án,
do
vậy
không
có
căn
cứ
áp
dụng
các
quy
định
về
"cố
tình
trốn
tránh
nghĩa
vụ
trả
nợ"
cũng
như
chứng
minh
thủ
tục
niêm
yết
công
khai
không
thể
có
hiệu
quả.
Căn
cứ
vào
các
tài
liệu
thu
thập
được,
VKSND
đã
kháng
nghị
bản
án
theo
thủ
tục
phúc
thẩm,
đề
nghị
Tòa
án
hủy
bản
án
trên.
Bản
án
số
54
nêu
trên
không
chỉ
áp
dụng
sai
pháp
luật
mà
còn
không
đảm
thi
hành
sau
khi
án
có
hiệu
lực.
Như
vậy
trong
trường
hợp
này,
VKSND
không
chỉ
bảo
vệ
quyền
lợi
cho
một
bên
đương
sự
là
bà
P
mà
cho
cả
hai
bên,
bao
gồm
cả
ông
L.
-
Vụ
“Tranh
chấp
hợp
đồng
vay
tài
sản”
giữa
nguyên
đơn
ông
T,
bà
L
và
bị
đơn
ông
T,
bà
Q:
Tại
bản
án
số
39/2015/DS-ST
ngày
23/4/2015,
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
chấp
nhận
yêu
cầu
khởi
kiện
của
nguyên
đơn,
buộc
ông
T
phải
có
nghĩa
vụ
trả
nợ
cho
vợ
chồng
ông
T
bà
L,
nhưng
không
chấp
nhận
yêu
cầu
chia
nghĩa
vụ
trả
nợ
của
nguyên
đơn
mà
chỉ
tuyên
nghĩa
vụ
trả
nợ
đối
với
ông
T,
và
cũng
chỉ
mình
ông
T
phải
chịu
án
phí.
Qua
nghiên
cứu
hồ
sơ
vụ
án,
VKSND
phát
hiện
bị
đơn
có
dấu
hiệu
thỏa
thuận
nhằm
trốn
tránh
nghĩa
vụ
trả
nợ.
Viện
kiểm
sát
đã
tiến
hành
xác
minh
tại
Chi
cục
thi
hành
án
dân
sự,
xác
minh
tại
địa
phương
nơi
bị
đơn
cư
trú
cũng
như
nơi
làm
việc
của
bà
Q
cho
thấy
ông
T
còn
rất
nhiều
khoản
nợ
chưa
được
thi
hành,
trong
khi
gia
đình
ông
T
chỉ
còn
khoản
thu
nhập
duy
nhất
là
từ
lương
hàng
tháng
của
bà
Q,
còn
ông
T
đã
dừng
kinh
doanh
từ
năm
trước.
Căn
cứ
vào
các
tài
liệu
chứng
cứ
đã
thu
thập,
VKSND
đã
kháng
nghị
bản
án
sơ
thẩm
nêu
trên
theo
thủ
tục
phúc
thẩm
đề
nghị
sửa
án
sơ
thẩm
buộc
bà
Q
phải
có
nghĩa
vụ
liên
đới
trả
nợ
cho
nguyên
đơn
và
đã
được
TAND
cấp
tỉnh
chấp
nhận
kháng
nghị.
Giả
sử
nếu
trong
trường
hợp
này,
VKSND
không
có
quyền
thu
thập
chứng
cứ
thì
sẽ
khó
bảo
vệ
thành
công
quan
điểm
kháng
nghị
tại
phiên
tòa
xét
xử
phúc
thẩm,
kháng
nghị
của
Viện
kiểm
sát
đã
bảo
vệ
quyền
lợi
cho
các
đương
sự
cũng
như
cho
Nhà
nước
khi
mà
đương
sự
cố
tình
trốn
tránh
nghĩa
vụ
của
mình.
Trong
trường
hợp
này,
VKSND
thu
thập
chứng
cứ,
phục
vụ
kháng
nghị,
không
chỉ
bảo
vệ
quyền
lợi
cho
hai
bên
nguyên
đơn
bị
đơn,
mà
cho
cả
người
thứ
ba
và
cho
cả
lợi
ích
của
Nhà
nước.
Để
thực
hiện
tốt
quyền
thu
thập
chứng
cứ
của
VKSND,
cần
thiết
phải
quy
định
tương
ứng
với
đó
là
trách
nhiệm
cung
cấp
tài
liệu,
chứng
cứ
của
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
cho
Viện
kiểm
sát.
Nếu
như
không
được
quy
định
về
quyền
này,
hoạt
động
xác
minh,
thu
thập
chứng
của
của
VKSND
sẽ
gặp
khó
khăn,
đặc
biệt
trong
những
trường
hợp
đương
sự,
cơ
quan,
tổ
chức
nơi
đang
lưu
giữ
hồ
sơ,
tài
liệu
bất
hợp
tác.
Nếu
chỉ
dựa
vào
quyền
yêu
cầu
Tòa
án
thu
thập
chứng
cứ
thì
Viện
kiểm
sát
dễ
rơi
vào
thế
bị
động,
nhất
là
khi
thời
hạn
kháng
nghị
chỉ
hạn
hẹp
trong
tối
đa
01
tháng
đối
với
Viện
kiểm
sát
cấp
tỉnh
như
đã
nêu
ở
trên,
thêm
vào
đó,
việc
yêu
cầu
Tòa
án
thu
thập
chứng
cứ
để
phục
vụ
cho
việc
hủy,
sửa
bản
án,
quyết
định
của
chính
mình
sẽ
không
đảm
bảo
được
tính
khách
quan
trong
hoạt
động
thu
thập
chứng
cứ
nói
chung
và
tài
liệu,
chứng
cứ
thu
được
nói
riêng.
Trên
đây
là
một
số
trao
đổi
về
quyền
yêu
cầu
thu
thập
chứng
cứ
và
hoạt
động
thu
thập
chứng
cứ
của
VKSND
trong
tố
tụng
dân
sự.
Qua
bài
viết
này,
tác
giả
đã
nêu
lên
một
số
điểm
bất
cập
trong
quy
định
về
quyền
yêu
cầu
Tòa
án
thu
thập
chứng
cứ
cũng
như
sự
cần
thiết
của
quy
định
về
quyền
tự
mình
thu
thập
tài
liệu
chứng
cứ
để
phục
vụ
cho
việc
kháng
nghị
của
VKSND
trong
tố
tụng
dân
sự.
Trong
phạm
vi
bài
viết,
tôi
chỉ
đề
cập
và
phân
tích
hoạt
động
này
của
VKSND
trong
quá
trình
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự
tại
cấp
sơ
thẩm
và
phúc
thẩm,
rất
mong
nhận
được
nhiều
ý
kiến
đóng
góp
của
từ
phía
bạn
đọc.
Nguyễn
Thị
An