VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG - Đã xem: 7114
Tổng hợp kết quả đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) trong ngành Kiểm sát Tuyên Quang
Thứ ba - 17/03/2015 14:53
I. Quá trình tổ chức lấy ý kiến đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã triển khai tổ chức lấy ý kiến góp ý vào Bộ luật dân sự (sửa đổi).
Đối tượng được lấy ý kiến: Toàn thể Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, cán bộ, công chức thuộc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
II. Đánh giá chung đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) Về ưu điểm:
Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) lần này đã kế thừa các quy định mang tính nguyên tắc của Bộ luật dân sự hiện hành đó là, đề cao trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền dân sự chính đáng trong các quan hệ dân sự. Cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các quan hệ dân sự đã có những thay đổi và cần có sự điều chỉnh của pháp luật cho phù hợp, hạn chế tối đa sự tùy tiện của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân, bảo đảm sự bình đẳng trong quan hệ dân sự.
Các quy định của dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) đã phù hợp với các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Các quy định của Bộ luật dân sự (sửa đổi) đã giải quyết được những vấn đề bất cập, tồn tại thực tiễn trong quá trình thực hiện Bộ luật dân sự hiện hành.
Về nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm, Bộ luật dân sự (sửa đổi) chưa quy định cụ thể về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Các quyền về nhân thân trong dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) chưa được nêu đầy đủ.
Về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, dự thảo Bộ luật chưa quy định cụ thể về thời hạn để các bên thỏa thuận điều chỉnh lại hợp đồng mà chỉ quy định "khoảng thời gian hợp lý..." quy định như vậy sẽ khó khăn trong quá trình thực hiện.
III. Ý kiến cụ thể về nội dung của dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) 1.1. Tham gia ý kiến vào toàn bộ dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
Những nội dung cần bổ sung:
- Cần quy định cụ thể về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vì xác định thời điểm có hiệu lực hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng, đây chính là thời điểm các bên chính thức ràng buộc nhau về quyền và nghĩa vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
- Bộ luật dân sự (sửa đổi) cần quy định cụ thể các quyền về nhân thân để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013.
- Cần quy định cụ thể về thời hạn để các bên thỏa thuận điều chỉnh lại hợp đồng.
1.2. Tham gia ý kiến sâu về 10 vấn đề trọng tâm: 1.2.1. Về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền dân sự
- 65/65 người nhất trí với loại ý kiến thứ nhất vì:
Quy định như dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân vì Tòa án có trách nhiệm xem xét, giải quyết mọi tranh chấp dân sự, kể cả trong trường hợp không có luật điều chỉnh.
Quy định như dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) là nhằm triển khai thi hành một cách triệt để quy định tại khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, theo đó, “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
1.2.2. Về quyền nhân thân
- 55/65 người nhất trí Loại ý kiến thứ nhất vì: Việc quy định cụ thể các quyền nhân thân sẽ tạo thuận lợi hơn cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn áp dụng; Các quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự là truyền thống của pháp luật dân sự Việt Nam từ Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 và thực tiễn áp dụng cũng không cho thấy có bất cập lớn.
- 10/65 người nhất trí ý loại ý kiến thứ 2:
Lý do tán thành: Việc quy định Thẩm phán và Hội thẩm phải đưa ra phán quyết kể cả trong trường hợp không có luật là chưa phù hợp với Hiến pháp; quy định này thiếu tính khả thi vì việc thực hiện trên thực tế đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm phải được đào tạo một cách bài bản về nghiệp vụ, kỹ năng giải thích pháp luật;
1.2.3.Về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự
- 65/65 người Nhất trí loại ý kiến thứ nhất vì:
Trong hộ gia đình các thành viên thường xuyên có sự thay đổi (do tách, nhập, sinh, tử, kết hôn...) nên việc xác định thành viên của hộ gia đình khi có tranh chấp để xác định quyền và nghĩa vụ gặp nhiều khó khăn;
Tổ hợp tác hiện hành gây nhiều khó khăn trong việc xác định tư cách pháp lý của Tổ hợp tác, phân định trách nhiệm dân sự của Tổ hợp tác và trách nhiệm dân sự của từng thành viên Tổ hợp tác.
Việc quy định hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự như Bộ luật hiện hành đã gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác vì hầu như không có hộ gia đình, tổ hợp tác là nguyên đơn hay bị đơn dân sự;
1.2.4. Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức
Khoản 1 Điều 145 dự thảo Bộ luật quy định:
“1. Trường hợp luật quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự mà hình thức đó không được tuân thủ thì giao dịch dân sự đó bị vô hiệu, trừ các trường hợp sau đây:
a) Việc không tuân thủ quy định về hình thức không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác và chủ thể giao dịch dân sự đã chuyển giao tài sản hoặc đã thực hiện công việc. Trong trường hợp này, theo yêu cầu của một hoặc các bên, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm hoàn tất thủ tục đối với giao dịch dân sự đó;
b) Trường hợp chủ thể chưa chuyển giao tài sản hoặc chưa thực hiện công việc thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án cho phép thực hiện quy định về hình thức của giao dịch dân sự trong một thời hạn hợp lý; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch dân sự đó bị vô hiệu.”
- 65/65 người nhất trí với loại ý kiến thứ nhất vì: Quy định như dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) là phù hợp với thực tiễn ký kết, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể xác lập quan hệ hợp đồng dân sự cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
1.2.5.Về bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu
Điều 148 dự thảo Bộ luật quy định:
“2. Trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí của chủ sở hữu;
3. Trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba thì giao dịch này bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa”.
- 60/65 người nhất trí Loại ý kiến thứ nhất vì :
Quy định như dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) sẽ bảo đảm tốt hơn, công bằng, hợp lý hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người thiện chí, ngay tình trong giao lưu dân sự, theo đó, nếu người thứ ba ngay tình căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà xác lập giao dịch thì người thứ ba ngay tình được bảo vệ;
Dự thảo Bộ luật dân sự tại khoản 3 Điều 182 phù hợp với quy định của Luật đất đai năm 2013. Do đó, việc quy định bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là phù hợp với nguyên tắc đăng ký bất động sản hiện nay, bảo đảm sự ổn định trong các quan hệ dân sự.
5/65 người nhất trí loại ý kiến thứ 2:
Lý do tán thành: Nguyên tắc ưu tiên bảo vệ chủ sở hữu tại Điều 138 Bộ luật dân sự hiện hành là kế thừa Bộ luật dân sự năm 1995 và đã được áp dụng ổn định trong gần 20 năm qua; bảo vệ tốt hơn quyền của chủ sở hữu tài sản là đối tượng của giao dịch và phù hợp với tinh thần bảo vệ quyền sở hữu được quy định tại Điều 32 Hiến pháp.
1.2.6.Về hình thức sở hữu
Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) quy định ba hình thức sở hữu, bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung (Điều 213 và từ Điều 224 đến Điều 247).
- 65 người nhất trí loại ý kiến thứ nhất vì:
Điều 53 Hiến pháp đã quy định về sở hữu toàn dân và Bộ luật dân sự cần ghi nhận hình thức sở hữu toàn dân để phù hợp với Hiến pháp;
Về đối tượng của sở hữu toàn dân là những tài sản có giá trị lớn, là tư liệu sản xuất chủ yếu của đất nước, do đó sở hữu toàn dân là hình thức sở hữu rất quan trọng cả về mặt kinh tế và chính trị. Vì vậy, sở hữu toàn dân cần được coi là một hình thức sở hữu độc lập.
Thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân, chỉ có Nhà nước mới có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân và có chế độ pháp lý riêng cho Nhà nước thực hiện quyền này.
1.2.7.Về thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác
Điều 182 Dự thảo Bộ luật quy định:
“1. Việc xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, nếu hợp đồng hoặc luật không có quy định khác.
Trường hợp hợp đồng và luật cùng quy định nhưng khác nhau về thời điểm xác lập quyền sở hữu, vật quyền khác thì áp dụng theo quy định của luật.
Thời điểm tài sản được chuyển giao được hiểu là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản.
2. Trường hợp tài sản đã được chuyển giao trước thời điểm hợp đồng được giao kết thì quyền sở hữu và vật quyền khác được xác lập kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác.
3. Trường hợp luật quy định việc chuyển giao vật phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì thời điểm xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký”.
- 50/65 người nhất trí với loại ý kiến thứ nhất vì:
Quy định như dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) đã phân định được rõ ràng hơn về thời điểm giao dịch được xác lập (có hiệu lực) với thời điểm quyền sở hữu hoặc vật quyền khác được xác lập.
Quy định như vậy là tôn trọng đối với quyền của các chủ thể của quan hệ dân sự trong việc thỏa thuận để xác định thời điểm xác lập quyền đối với tài sản, bảo đảm việc tuân thủ các quy định mang tính nguyên tắc trong việc xác định thời điểm chuyển quyền đối với một số tài sản đặc biệt như bất động sản; bảo đảm sự phù hợp của Bộ luật dân sự với quy định của các luật khác có liên quan như Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản…
- 15/65 người nhất trí loại ý kiến thứ 2.
Lý do tán thành: Đã xây dựng được một hệ thống đăng ký tài sản thống nhất, minh bạch, nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với bất động sản và thị trường bất động sản.
1.2.8.Về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi
Điều 443 dự thảo Bộ luật dân sự (Sửa đổi) về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi quy định trường hợp hoàn cảnh thay đổi dẫn đến quyền, lợi ích của một trong các bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì cho phép các bên điều chỉnh hợp đồng; trường hợp các bên không đạt được thoả thuận trong một khoảng thời gian hợp lý thì Toà án có thể:
a) Chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo những điều khoản do Toà án quyết định;
b) Điều chỉnh hợp đồng để phân chia cho các bên các thiệt hại và lợi ích phát sinh từ việc thay đổi hoàn cảnh một cách công bằng và bình đẳng. Tuỳ theo từng trường hợp, Toà án có thể buộc bên từ chối đàm phán hoặc phá vỡ đàm phán một cách không thiện chí, trung thực phải bồi thường thiệt hại.
- 65/65 người nhất trí với loại ý kiến thứ nhất vì:
Việc cho phép Tòa án điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi không vi phạm nguyên tắc tự do ý chí, tự do định đoạt của các chủ thể quan hệ hợp đồng.
Việc cho phép Tòa án điều chỉnh hợp đồng sẽ thúc đẩy các hợp đồng được thực hiện trong thực tiễn, đẩy mạnh giao lưu dân sự.
1.2.9.Về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
Điều 476 Bộ luật dân sự hiện hành quy định, lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.
Điều 491 dự thảo Bộ luật dân sự quy định, lãi suất vay do các bên thỏa thuận hoặc do luật định. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại vay tương ứng, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định ở khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
- 55 người nhất trí loại ý kiến thứ nhất vì: Quy định mức lãi suất trần dựa trên lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là để tạo ra sự thống nhất về xác định lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, ngăn ngừa việc cho vay nặng lãi, phù hợp với quy định tại Điều 12 Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Việc xác định một mức lãi suất trần cụ thể trong Bộ luật dân sự là không phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế thị trường.
- 10 người nhất trí loại ý kiến thứ 2. Lý do tán thành: Các chủ thể tham gia giao dịch khó có thể biết mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố có phù hợp với loại vay tương ứng hay không sẽ gây khó khăn cho các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự trên thực tế; Việc quy định cụ thể mức lãi suất trong Bộ luật dân sự sẽ đảm bảo được tính rõ ràng minh bạch, dễ áp dụng, các bên tham gia giao dịch dân sự có thể biết ngay hậu quả pháp lý khi xác lập hợp đồng vay.
1.2.10.Về thời hiệu
- 65/65 ý kiến nhất trí loại ý kiến thứ nhất vì: Quy định về thời hiệu trong Bộ luật dân sự (sửa đổi) là phù hợp để Tòa án bảo vệ các quyền dân sự của tổ chức, cá nhân, giải quyết được một cách triệt để và dứt điểm các tranh chấp phát sinh, hạn chế tình trạng Tòa án có thể căn cứ vào thời hiệu mà từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự.
2. Về kỹ thuật lập pháp:
- Về bố cục và kết cấu, vị trí của các chương, điều khoản nhất trí như dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).
- Về ngôn ngữ diễn đạt và kỹ thuật xây dựng của các quy định nhất trí như dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi).