Tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
là
chế
định
được
ghi
nhận
từ
khá
sớm
trong
các
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
và
dần
được
hoàn
thiện
trong
các
lần
sửa
đổi,
bổ
sung.
Tuy
nhiên,
thực
tiễn
áp
dụng
chế
định
này
cho
thấy
vẫn
còn
bộc
lộ
một
số
khó
khăn,
vướng
mắc
cần
tiếp
tục
được
nghiên
cứu
để
bổ
sung,
hoàn
thiện.
Trong
bài
viết
này,
tác
giả
tập
trung
phân
tích
quy
định
của
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
năm
2015
về
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự,
chỉ
ra
một
số
khó
khăn,
vướng
mắc;
từ
đó
đưa
ra
đề
xuất,
kiến
nghị
cụ
thể.
1.
Khó
khăn,
vướng
mắc
trong
việc
áp
dụng
quy
định
về
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
theo
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
năm
2015
Thứ
nhất:
Khó
khăn
trong
việc
áp
dụng
căn
cứ
tạm
đình
chỉ
Tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
là
việc
Tòa
án
quyết
định
tạm
ngưng
việc
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
đã
thụ
lý
trong
một
thời
hạn
khi
có
những
căn
cứ
do
pháp
luật
quy
định.
Khi
lý
do
của
việc
tạm
đình
chỉ
không
còn
Tòa
án
lại
tiếp
tục
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
đó.
Về
cơ
bản,
các
căn
cứ
tạm
đình
chỉ
được
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
năm
2015
quy
định
tương
đối
cụ
thể
trên
cơ
sở
kế
thừa
các
quy
định
của
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
năm
2004
(được
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2011).
Hiện
nay
có
08
căn
cứ
để
tạm
đình
chỉ
vụ
án
dân
sự
được
quy
định
tại
Khoản
1
Điều
214
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
(BLTTDS).
Tuy
nhiên
vẫn
còn
có
nhiều
quan
điểm
khác
nhau
về
việc
đương
sự
(có
thể
là
nguyên
đơn,
bị
đơn
hoặc
người
có
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
liên
quan)
có
đơn
đề
nghị
Tòa
án
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
vì
một
lý
do
nào
đó
như:
Chữa
bệnh,
cần
có
thời
gian
thu
thập
thêm
chứng
cứ
giao
nộp
cho
Tòa
án…
thì
Tòa
án
có
được
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
hay
không.
Vấn
đề
này
trong
thực
tiễn
có
Tòa
án
ra
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án,
có
Tòa
án
không
chấp
nhận
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án.
Điều
này
cho
thấy
sự
không
thống
nhất
trong
áp
dụng
pháp
luật
giữa
các
Tòa
án
hiện
nay.
Cụ
thể
theo
Khoản
18
Điều
70
BLTTDS
quy
định,
đương
sự
có
quyền:
“Đề
nghị
Tòa
án
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
việc
theo
quy
định
của
Bộ
luật
này”.
Tuy
nhiên, trên
thực
tế,
trường
hợp
Tòa
án
ra
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
theo
đề
nghị
của
đương
sự
quy
định
tại
khoản
18
Điều
70
BLTTDS
năm
2015
không
được
liệt
kê
cụ
thể
trong
các
căn
cứ
tạm
đình
chỉ
được
quy
định
tại
khoản
1
Điều
214
BLTTDS
năm
2015,
nhưng
có
thể
hiểu,
trường
hợp
này
thuộc
trường
hợp
quy
định
tại
điểm
h
khoản
1
Điều
214
là
các
trường
hợp
khác
theo
quy
định
của
pháp
luật.
Qua
nghiên
cứu,
tác
giả
thấy
rằng,
việc
hiểu
và
áp
dụng
quy
định
này
vẫn
còn
có
những
quan
điểm
chưa
thống
nhất.
Theo
tác
giả,
quyền
đề
nghị
Tòa
án
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
là
quyền
do
pháp
luật
tố
tụng
dân
sự
quy
định,
nếu
đề
nghị
đó
là
hợp
pháp
và
có
căn
cứ
thì
Tòa
án
chấp
nhận
và
ra
Quyết
định
tạm
đình
chỉ.
Còn
trường
hợp
đề
nghị
không
có
căn
cứ
thì
Tòa
án
không
chấp
nhận.
Hiện
nay
chưa
có
quy
định
cụ
thể
về
việc
xác
định
trường
hợp
nào
đề
nghị
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
của
đương
sự
được
chấp
nhận
và
trường
hợp
nào
đề
nghị
này
không
được
chấp
nhận.
Ví
dụ
như
trường
hợp
nguyên
đơn
đề
nghị
Tòa
án
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
với
lý
do
đương
sự
vào
bệnh
viện
chữa
bệnh
hay
trường
hợp
đương
sự đi
nước
ngoài
công
tác mà
nguyên
đơn
không
thể
ủy
quyền
cho
người
khác
tham
gia
tố
tụng
được hoặc
đương
sự
cần
có
thời
gian
thu
thập
thêm
chứng
cứ
giao
nộp
cho
Tòa
án… thì
đề
nghị
này có
được
chấp
nhận
hay
không?
Như
đã
phân
tích,
do
chưa
có
văn
bản
hướng
dẫn
cụ
thể
việc
xác
định
trường
hợp
nào
thì
đề
nghị
tạm
đình
chỉ
vụ
án
dân
sự
của
đương
sự
được
chấp
nhận
và
trường
hợp
nào
không
được
Tòa
án
chấp
nhận
nên
thực
tiễn
áp
dụng
tại
các
Tòa
án
vẫn
mang
tính
tùy
nghi,
chủ
yếu
phụ
thuộc
vào
đánh
giá,
nhận
định
chủ
quan
của
Thẩm
phán
giải
quyết
vụ
án.
Do
vậy,
việc
áp
dụng
trong
thực
tiễn
vẫn
chưa
có
sự
thống
nhất.
Đây
là
một
khó
khăn,
vướng
mắc
cần
sớm
được
khắc
phục.
Thứ
hai,
Về
kháng
cáo
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
Theo
quy
định
tại
khoản
1
Điều
214
BLTTDS
thì
khi
có
một
trong
các
căn
cứ
được
liệt
kê
thì
Tòa
án
ra
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự.
Ví
dụ,
khi
có
căn
cứ
quy
định
tại
điểm
d
khoản
1
Điều
214
BLTTDS
thì
Tòa
án
ra
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
là: “Cần
đợi
kết
quả
giải
quyết
vụ
án
khác
có
liên
quan
hoặc
sự
việc
được
pháp
luật
quy
định
là
phải
do
cơ
quan,
tổ
chức
khác
giải
quyết
trước
mới
giải
quyết
được
vụ
án”.
Đây
là
một
trong
những
căn
cứ
để
Tòa
án
ra
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
khá
phổ
biến;
tuy
nhiên,
thực
tiễn
ra
quyết
định
tạm
đình
chỉ
trong
trường
hợp
này
cũng
gặp
một
số
vướng
mắc,
liên
quan
đến
quyền
kháng
cáo.
Cụ
thể:
Tại
khoản
5
Điều
215
BLTTDS
năm
2015
quy
định: “Quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
có
thể
bị
kháng
cáo,
kháng
nghị
theo
thủ
tục
phúc
thẩm”.
Như
vậy,
trong
trường
hợp
Tòa
án
ra
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
với
căn
cứ
nêu
tại
điểm
d
khoản
1
Điều
214
BLTTDS,
trong
thời
hạn
luật
định,
do
không
đồng
ý
với
quyết
định
tạm
đình
chỉ
vụ
án,
đương
sự
có
đơn
kháng
cáo
(sau
đây
gọi
chung
là
người
có
đơn
kháng
cáo)
đối
với
quyết
định
tạm
đình
chỉ
vụ
án
nêu
trên.
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
chuyển
hồ
sơ
cho
Tòa
án
cấp
phúc
thẩm
để
xem
xét
theo
trình
tự
phúc
thẩm.
Tuy
nhiên,
quá
trình
giải
quyết
của
Tòa
án
cấp
phúc
thẩm
phát
sinh
tình
huống
pháp
lý
hiện
còn
các
quan
điểm
khác
nhau
như
sau:
Trong
quá
trình
Tòa
án
cấp
phúc
thẩm
đang
xem
xét
đối
với
kháng
cáo
của
người
có
đơn
kháng
cáo
thì
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
ban
hành
quyết
định
tiếp
tục
giải
quyết
vụ
án
vì
lý
do
tạm
đình
chỉ
không
còn.
Đồng
thời
người
có
đơn
kháng
cáo
cũng
rút
kháng
cáo
đối
với
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm.
Trường
hợp
này,
khoản
5
Điều
314
BLTTDS
năm
2015
quy
định
về
thủ
tục
phúc
thẩm
đối
với
quyết
định
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
bị
kháng
cáo
như
sau:
“5.
Khi
xem
xét
quyết
định
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
bị
kháng
cáo,
kháng
nghị,
Hội
đồng
phúc
thẩm
có
quyền:
a)
Giữ
nguyên
quyết
định
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm;
b)
Sửa
quyết
định
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm;
c)
Hủy
quyết
định
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
và
chuyển
hồ
sơ
vụ
án
cho
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
để
tiếp
tục
giải
quyết
vụ
án”.
Như
vậy,
khi
xem
xét
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
bị
kháng
cáo
thì
Hội
đồng
phúc
thẩm
có
quyền
ra
một
trong
các
quyết
định
nêu
trên.
Tuy
nhiên,
đối
với
trường
hợp
mà
tác
giả
viện
dẫn
ở
trên
thì
khoản
5
Điều
314
BLTTDS
lại
không
có
quy
định
Hội
đồng
phúc
thẩm
xử
lý
trường
hợp
này
như
thế
nào?
Đồng
thời,
tại
mẫu
số
72-DS
ban
hành
kèm
theo
Nghị
quyết
số
01/2017/NQ-HĐTP
ngày
13/01/2017
của
Hội
đồng
Thẩm
phán
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
quy
định
mẫu
Quyết
định
giải
quyết
việc
kháng
cáo
đối
với
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
thì
phần
căn
cứ
để
ra
quyết
định
là căn
cứ
vào
Điều
314
BLTTDS.
Như
vậy,
theo
quy
định
tại
khoản
5
Điều
314
BLTTDS
thì
không
quy
định
điều
chỉnh
trường
hợp
tác
giả
nêu
ra.
Vậy,
lúc
này
hội
đồng
phúc
thẩm
vẫn
phải
xem
xét
kháng
cáo
của
người
có
đơn
kháng
cáo
để
ra
một
các
quyết
định
cuối
cùng
quy
định
tại
khoản
5
Điều
314
BLTTDS
hay
ra
quyết
định
đình
chỉ
xét
xử
phúc
thẩm
vụ
án,
chuyển
hồ
sơ
cho
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
tiếp
tục
giải
quyết
vụ
án
theo
Điều
289,
Điều
295
BLTTDS
năm
2015.
Do
chưa
có
quy
định
rõ
ràng,
cụ
thể
nên
việc
áp
dụng
trong
thực
tiễn
giải
quyết
tình
huống
pháp
lý
nêu
trên
có
chưa
thống
nhất,
gây
vướng
mắc
cho
cơ
quan,
người
tiến
hành
tố
tụng,
gây
ảnh
hưởng
đến
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
đương
sự
và
các
chủ
thể
có
liên
quan.
2.
Một
số
kiến
nghị
hoàn
thiện
Để
khắc
phục
các
vướng
mắc,
hạn
chế
về
tạm
đình
chỉ
vụ
án
dân
sự
như
đã
phân
tích
trên,
tác
giả
kiến
nghị
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
cần
sớm
ban
hành
văn
bản
hướng
dẫn
cụ
thể
quy
định
tại
khoản
18
Điều
70
BLTTDS,
trong
đó,
cần
đưa
ra
các
căn
cứ
cụ
thể
để
xác
định
đề
nghị
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
nào
của
đương
sự
là
hợp
lý
và
trường
hợp
nào
thì
không
hợp
lý
để
Tòa
án
ra
quyết
định
chấp
nhận
hoặc
không
chấp
đề
nghị
này
của
đương
sự.
Đối
với
trường
hợp
xem
xét
quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
bị
kháng
cáo
cần
bổ
sung
quy
định
tại
khoản
5
Điều
314
BLTTDS
theo
hướng:
““5.
Khi
xem
xét
quyết
định
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
bị
kháng
cáo,
kháng
nghị,
Hội
đồng
phúc
thẩm
có
quyền:
…
d)
Đình
chỉ
giải
quyết
xét
xử
phúc
thẩm
khi
người
kháng
cáo
rút
toàn
bộ
nội
dung
kháng
cáo
hoặc
Viện
kiểm
sát
rút
toàn
bộ
nội
dung
kháng
nghị”.
Quyết
định
tạm
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
của
Tòa
án
được
ban
hành
khi
có
những
căn
cứ
xác
định
theo
quy
định
của
luật.
Việc
Tòa
án
ban
hành
quyết
định
này
nhằm
bảo
đảm
tốt
nhất
việc
giải
quyết
chính
xác,
khách
quan
nội
dung
vụ
án
dân
sự,
từ
đó
bảo
vệ
tốt
nhất
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
đương
sự.
Phạm
Tất
Lợi
-
VKSND
huyện
Hàm
Yên