Trong thực tiễn thực hiện BLTTHS năm 2003 còn có một số điều quy định chưa rõ ràng, có mâu thuẫn giữa các Điều luật... dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong phạm vi bài viết này tôi xin nêu lên những vướng mắc và kiến nghị bổ sung sửa đổi các vấn đề cụ thể như sau:
1. Về khái niệm Bị can theo Điều 49 BLTTHS.
Tại Khoản 1 Điều 49 quy định: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự”. Trong thực tế có trường hợp Cơ quan điều tra (CQĐT) khởi tố bị can nhưng không được Viện kiểm sát (VKS) phê chuẩn. Vì vậy đề nghị bổ sung khoản 1 Điều 49 BLTTHS: "Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và được Viện kiểm sát phê chuẩn”. Ngoài ra nội dung của điều luật cần xác định rõ quyền và nghĩa vụ của bị can thời điểm sau khi CQĐT khởi tố và thời điểm sau khi VKS phê chuẩn quyết định khởi tố bị can để đảm bảo về quyền của bị can và đảm bảo sự thống nhất về mặt nhận thức trong quá trình tiến hành tố tụng.
2. Về xử lý vật chứng quy định tại Điều 76 BLTTHS.
Khoản 2 Điều 76 quy định: “ ... Vật chứng được xử lý như sau:
a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành thì bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước hoặc tiêu huỷ;
b) Vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ Nhà nước;
c) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ Nhà nước;
d) Vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp luật;
đ) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu huỷ…”.
Như vậy Điều luật chỉ quy định việc xử lý vật chứng đối với các trường hợp mà vật chứng có liên quan đến việc phạm tội, để từ đó có thể xử lý bằng biện pháp tịch thu tiêu huỷ, tịch thu xung công, trả lại cho người bị hại hoặc các cơ quan, tổ chức bị hành vi phạm tội xâm hại. Trong thực tế hiện nay đối với những vụ án có liên quan đến quyền nhân thân việc xử lý các giấy tờ có liên quan lại chưa được đề cập như: Giấy phép lái xe trong các vụ án vi phạm về giao thông... Vì vậy đề nghị bổ sung vấn đề này vào Điều 76 của BLTTHS.
3. Về việc người bị hại không yêu cầu khởi tố theo Điều 105 BLTTHS.
Khoản 1 Điều 105 quy định: “... Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất…”
Đối với những vụ án về các tội phạm nêu trên, trong thực tế xảy ra trường hợp người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất không có yêu cầu khởi tố nhưng thân nhân của bị hại hoặc tổ chức, cá nhân khác lại có đơn yêu cầu CQĐT khởi tố, nhưng điều luật chưa quy định việc giải quyết trong trường hợp này.
Vì vậy đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 105 BLTTHS theo hướng: Đối với những tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và Điều 171 BLHS mà người bị hại không có yêu cầu thì CQĐT ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
4. Về Yêu cầu điều tra theo Điều 37 và Điều 112 BLTTHS
Điểm b khoản 1 Điều 37 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên: "… Đề ra yêu cầu điều tra…” và Khoản 2 Điều 112 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: "... Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra..”
Theo các quy định nêu trên thì Yêu cầu điều tra là một trong những hoạt động tố tụng thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra, như vậy đây là văn bản tố tụng của VKS và phải được lưu trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau, cách hiểu của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chưa thống nhất nên việc lưu Yêu cầu điều tra trong Hồ sơ vụ án không thống nhất (có hồ sơ lưu, có hồ sơ không lưu).
Vì vậy đề nghị sửa đổi, bổ sung điều luật theo hướng: Văn bản yêu cầu điều tra của của VKS trong quá trình Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra là văn bản pháp lý và phải được lưu trong HSVA.
5. Về nhập vụ án hình sự để tiến hành điều tra theo Điều 117 BLTTHS.
Khoản 1 Điều 117 quy định: “Cơ quan điều tra có thể nhập để tiến hành điều tra trong cùng một vụ án những trường hợp bị can phạm nhiều tội, nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm quy định tại Điều 313 và Điều 314 của Bộ luật hình sự….”.
Như vậy đối với trường hợp bị can thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng ở những địa bàn khác nhau do các CQĐT khác nhau có thẩm quyền điều tra thì việc nhập vụ án chưa được quy định. Trong thực tế đối với trường hợp này có địa phương các CQĐT thống nhất chuyển vụ án đến một CQĐT để nhập vụ án giải quyết nhưng cũng có địa phương ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can riêng từng địa bàn để điều tra, truy tố xét xử. Khi chia tách hành vi phạm tội của bị can để xử lý là quá bất lợi cho bị can, không đảm bảo được nguyên tắc có lợi cho người phạm tội.
Vì vậy đề nghị bổ sung điều luật theo hướng chuyển vụ án cho CQĐT phát hiện sau cùng thực hiện việc nhập vụ án để điều tra nhằm đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo.
6. Về việc thay thế biện pháp ngăn chặn là tạm giam theo Điều 94 và Điều 120 BLTTHS.
Tại đoạn 2 Khoản 2 Điều 94 quy định: “…Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn thì việc huỷ bỏ hoặc thay thế phải do Viện kiểm sát quyết định” như vậy việc ra Lệnh tạm giam để điều tra thuộc thẩm quyền của CQĐT và phải được VKS phê chuẩn và việc Gia hạn thời hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của VKS. Nhưng tại đoạn 2 khoản 6 Điều 120 lại quy định “….Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác”, theo quy định này thì người ra lệnh tạm giam (Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT) khi hết thời hạn tạm giam hoặc xét cần thiết thì có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn khác mà không cần phải có sự phê chuẩn của VKS. Đây là vấn đề còn mâu thuẫn giữa hai điều luật nêu trên, trong thực tiễn việc áp dụng điều luật này chưa được thống nhất giữa CQĐT và VKS. Vì vậy đề nghị sửa đổi theo hướng bỏ đoạn 2, khoản 6 Điều 120.
7. Về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung theo Điều 121 BLTTHS.
Tại khoản 2 Điều 121 quy định: “…Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra…”.
Điều luật không quy định rõ VKS hoặc Toà án trả lại là VKS hoặc Toà án cấp nào hay VKS và Toà án nói chung trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Vì vậy việc áp dụng trong thực tiễn chưa được thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Có quan điểm cho rằng khi Tòa án trả hồ sơ 2 lần để VKS trả cho CQĐT được tính là 2 lần VKS trả hồ sơ, do đó VKS không có quyền trả hồ sơ nữa. Đa số các quan điểm cho rằng trường hợp này được tính là Tòa án trả hồ sơ, ngoài 2 lần này thì VKS được trả hồ sơ điều tra bổ sung 2 lần nữa.
Vì vậy đề nghị bổ sung, sửa đổi theo hướng Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Số lần trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung không quá 4 lần.
8. Về thời hạn quyết định truy tố theo Điều 166 BLTTHS.
Điều 166 BLTTHS quy định thời hạn truy tố, thời hạn gia hạn thời hạn truy tố đối với tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng nhưng không quy định, khi hết thời hạn gia hạn truy tố mà không ra được Quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng Bản cáo trạng hoặc Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thì VKS phải ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Vì vậy đề nghị bổ sung Điều 166 theo hướng khi hết thời hạn truy tố mà Viện Kiểm sát không ra được Quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng hoặc quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Theo quy định hiện hành thì việc thay đổi tội danh trong giai đoạn điều tra đều phải có sự phê chuẩn của VKS nhưng trong giai đoạn truy tố BLTTHS lại không quy định VKS có quyền thay đổi tội danh. Vì vậy đề nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS theo hướng: Trong giai đoạn truy tố VKS có quyền thay đổi tội danh mà không phải trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung.
9. Về việc hoãn phiên tòa vì lý do vắng mặt một trong những người tham gia tố tụng theo các Điều 187, 190, 191, 192 và 193 BLTTHS.
BLTTHS quy định trường hợp phải hoãn phiên tòa do vắng mặt một trong những người tham gia tố tụng tại các Điều 187, 190, 191, 192 và 193 nhưng lại không quy định trong từng trường hợp cụ thể được hoãn tối đa là bao nhiêu lần, do đó dẫn đến tình trạng các đối tượng như bị cáo, người bào chữa, người làm chứng…viện lý do xin hoãn phiên tòa nhiều lần. Ngoài ra BLTTHS cũng không quy định trường hợp người bào chữa do bị cáo nhờ (thuê) vắng mặt, không gửi bản bào chữa cho Tòa án mà có đơn xin hoãn phiên tòa thì giải quyết như thế nào? Trong thực tiễn trường hợp này thường được Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa và sẽ xảy ra trường hợp vụ án có nhiều bị can và nhiều người bào chữa chỉ cần mỗi bị can hoặc người bào chữa có đơn xin hoãn 01 lần thì Tòa án đã phải ra Quyết định hoãn phiên tòa rất nhiều lần. Việc vụ án trước khi được đưa ra xét xử bị hoãn đi hoãn lại nhiều lần (có trường hợp hoãn tới 18 lần) dẫn đến thời hạn giải quyết vụ án bị kéo dài, có vụ án VKS truy tố và chuyển hồ sơ sang tòa vài năm nhưng vẫn chưa đưa ra xét xử được. Như vậy không những ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của bị hại cũng như người liên quan.
Vì vậy đề nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS theo hướng: Quy định số lần hoãn phiên tòa tối đa đối với việc vắng mặt một trong những người tham gia tố tụng theo các Điều luật tương ứng. Việc người bào chữa do bị cáo nhờ (thuê) vắng mặt phải gửi bản bào chữa cho Tòa án, trường hợp có đơn xin hoãn, Tòa án chỉ ra Quyết định hoãn phiên tòa 01 lần.
Đào Thị Hảo