* Vấn đề 1: Xác định thời điểm chấp hành hình phạt án treo và cải tạo không giam giữ.
Việc xác định thời điểm chấp hành hình phạt là rất quan trọng trong công tác xét xử các vụ án hình sự. Bởi đó không chỉ là thời điểm mà người bị kết án phải bị áp dụng chế tài hình sự (hình phạt) mà còn là mốc để xác định thời điểm họ chấp hành xong hình phạt và xác định người bị kết án được xoá án tích từ lúc nào qua đó để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm nếu sau đó họ tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên, hiện nay việc xác định thời điểm chấp hành hình phạt của án treo và cải tạo không giam giữ vẫn còn có một số bật cập không đồng nhất.
Theo quy định tại khoản 5 điều 5 của Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ: "Người bị kết án là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương, thì thời gian chấp hành hình phạt cũng được tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ, nhưng không được tính vào thời gian xét nâng lương, phong quân hàm theo niên hạn. Thời gian chấp hành hình phạt được tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án", mặt khác tại mục 3 Điều 2 Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định "Thời điểm bắt đầu tính thời gian cải tạo không giam giữ là ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Thời điểm bắt đầu tính thời gian cải tạo không giam giữ phải được tuyên trong phần quyết định của bản án". Vậy thời điểm bắt đầu tính thời gian cải tạo không giam giữ là ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 5 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo: “người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương, thì thời gian thử thách cũng được tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ, nhưng không được tính vào thời gian xét nâng lương, phong quân hàm theo niên hạn. Thời gian thử thách được tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án”. Theo quy định của pháp luật thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo là ngày Tòa tuyên án.
Theo quy định trên ta có thể thấy quy định tại khoản 5 điều 5 của Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ và khoản 5 Điều 5 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ giống nhau nhưng thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo và thời điểm tính thời gian cải tạo không giam giữ khác nhau. Do đó, đòi hỏi đặt ra là cần có quy định sao cho phù hợp để phân định rõ sự khác nhau giữa việc chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ với thời gian thử thách của án treo.
* Vấn đề 2: Điều kiện áp dụng hình phạt án treo và cải tạo không giam giữ.
Trong pháp luật Việt Nam hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Nhà nước đặt ra hình phạt nhưng hình phạt đó phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do người phạm tội thực hiện. Bộ luật hình sự Việt Nam quy định hệ thống hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình; các loại hình phạt đó được sắp xếp theo trật tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc. Như vậy hình phạt “Cải tạo không giam giữ” được coi là nhẹ hơn hình phạt tù.
Theo quy định tại Điều 31 BLHS năm 1999; Điều 36 BLHS năm 2015 "Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội...; Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó...".
Theo quy định tại Điều 60 BLHS năm 1999; Điều 65 BLHS năm 2015 "Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự; Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó....". Như vậy "Án treo" có thể được hiểu là việc miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Giữa “Án treo” và “Cải tạo không giam giữ” có sự khác nhau, tuy nhiên xét bản chất của “Án treo” và “Cải tạo không giam giữ” giống nhau ở chỗ: Người chấp hành án không phải cách ly khỏi xã hội mà họ được chung sống với gia đình như những người khác dưới sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương nơi người đó làm việc hoặc cư trú. Mặc dù giống nhau về bản chất trong việc giáo dục và quản lý người bị kết án tuy nhiên việc áp dụng hình phạt “Cải tạo không giam giữ” hay áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng “Án treo” đối với người phạm tội còn có những bất cập nhất định như: Pháp luật hiện hành không có quy định về điều kiện nhân thân của bị cáo để được áp dụng hình phạt “Cải tạo không giam giữ”, nhưng lại có quy định điều kiện về nhân thân của bị cáo để được áp dụng chế định “Án treo" là "người phạm tội Có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng...". Do chưa có quy định rõ ràng về điều kiện được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ nên có trường hợp bị cáo có nhân thân xấu (không đủ điều kiện để được hưởng án treo) nhưng lại được áp dụng hình phạt “Cải tạo không giam giữ”.
Với bất cập trên đề xuất các cơ quan liên ngành tố tụng trung ương cần nghiên cứu, xem xét về vấn đề đưa ra những điều kiện để được áp dụng hình phạt “Cải tạo không giam giữ” khắt khe hơn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ít hơn so với “Án treo" để bảo đảm sự nghiêm minh, công bằng hơn khi lượng hình và quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
* Vấn đề 3: Bàn về thi hành quyết định thi hành án treo
Theo quy định tại Điều 62 Luật THAHS năm 2010:
“1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có nhiệm vụ triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là người chưa thành niên đến trụ sở cơ quan thi hành án để ấn định thời gian người được hưởng án treo phải có mặt tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc và cam kết việc chấp hành án, lập hồ sơ thi hành án...;
2. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải giao hồ sơ thi hành án cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người được hưởng án treo...".
Theo quy định trên: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có nhiệm vụ triệu tập người được hưởng án treo, người đại diện hợp pháp của người được hưởng án treo là người chưa thành niên đến trụ sở cơ quan thi hành án để ấn định thời gian người được hưởng án treo phải có mặt tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và cam kết việc chấp hành án, lập hồ sơ thi hành án.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định này luôn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ như:
Khi Cơ quan THAHS Công an cấp huyện triệu tập bị án để làm thủ tục thi hành án nhưng bị án không đến, Cơ quan THAHS Công an cấp huyện tiến hành xác minh thì bị án không có mặt tại địa phương nên không đến để làm việc theo giấy triệu tập. Do đó Cơ quan thi hành án hình sự công an huyện không ấn định được thời gian người phải thi hành án treo, cải tạo không giam giữ đến Ủy ban nhân dân xã, cam kết việc chấp hành án và đương nhiên hồ sơ thi hành án không được bàn giao cho Ủy ban nhân dân xã để tổ chức thi hành.
Đối với một số hồ sơ thi hành án treo, cải tạo không giam giữ Cơ quan THAHS cấp huyện đã bàn giao cho UBND cấp xã nhưng trong thời gian chấp hành án bị án bỏ đi làm ăn xa không báo cáo chính quyền địa phương. Do đó ảnh hưởng đến công tác lập hồ sơ, quản lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ của các cơ quan được giao nhiệm vụ là Cơ quan thi hành án hình sự- Công an cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã.
Từ thực tiễn trên cho thấy bản án của Tòa án không được người phải thi hành án tuân thủ nghiêm minh và chấp hành theo đúng quy định. Người phải chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ không được quản lý, giám sát giáo dục theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, việc xác định bị án đã thi hành án xong phần hình phạt hay chưa cũng không rõ ràng, bởi, nếu hết thời gian chấp hành án treo và thời gian thử thách thì người đó có được coi là đã được xóa án tích hay không?
Trên đây là quan điểm của cá nhân về một số vấn đề trong áp dụng Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành về án treo, cải tạo không giam giữ.
Phạm Tất Lợi