Chỉ
thị
số
01/CT-VKSTC
ngày
20/12/2017
của
Viện
trưởng
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao
về
công
tác
của
ngành
Kiểm
sát
nhân
dân
năm
2018
đã
nêu
rõ “Năm
2018,
toàn
Ngành
xác
định
nhiệm
vụ
nâng
cao
chất
lượng
hiệu
quả
công
tác
kiểm
sát
việc
giải
quyết
vụ
án
hành
chính,
vụ
việc
dân
sự,
kinh
doanh
thương
mại,
lao
động
và
những
việc
khác
theo
quy
định
của
pháp
luật
là
một
trong
những
nhiệm
vụ
trọng
tâm”.
Xuất
phát
từ
nhiệm
vụ
nêu
trên,
tôi
chọn
chuyên
đề
“Kỹ
năng
thực
hiện
quyền
kháng
nghị
phúc
thẩm
của
Viện
kiểm
sát
trong
việc
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự”
làm
đề
tài
nghiên
cứu.
I.
Quy
định
chung
về
quyền
kháng
nghị
phúc
thẩm
của
Viện
kiểm
sát
trong
việc
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự
1.Khái
niệm
Kháng
nghị
phúc
thẩm
là
quyền
năng
pháp
lý
được
pháp
luật
quy
định
cho
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
để
kháng
nghị
những
bản
án,
quyết
định
sơ
thẩm
chưa
có
hiệu
lực
pháp
luật
của
Toà
án
cùng
cấp
và
cấp
dưới
trực
tiếp
khi
phát
hiện
có
vi
phạm
pháp
luật
nghiêm
trọng
để
yêu
cầu
Toà
án
xét
xử
lại
theo
thủ
tục
phúc
thẩm
nhằm
bảo
đảm
việc
giải
quyết
vụ
án
đúng
quy
định
của
pháp
luật,
bảo
vệ
lợi
ích
của
Nhà
nước,
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
đương
sự.
2.
Về
thẩm
quyền
và
đối
tượng
của
quyền
kháng
nghị
phúc
thẩm
Điểm
d
Khoản
1
Điều
57
và
Điều
278
Bộ
luật
tố
tụng
dân
sự
năm
2015
quy
định:
-
Chủ
thể
có
thẩm
quyền
thực
hiện
quyền
kháng
nghị
phúc
thẩm
là:
Viện
trưởng
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp
và
cấp
trên
trực
tiếp
của
Tòa
án
đã
giải
quyết
vụ
án
theo
thủ
tục
sơ
thẩm.
-
Đối
tượng
của
quyền
kháng
nghị
phúc
thẩm
là:
Bản
án,
quyết
định
tạm
đình
chỉ,
quyết
định
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
chưa
có
hiệu
lực
pháp
luật
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm.
3.
Về
căn
cứ
ban
hành
kháng
nghị
Khoản
1
Điều
5
Luật
Tổ
chức
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
năm
2014
quy
định
Viện
kiểm
sát
thực
hiện
quyền
kháng
nghị
khi“bản
án,
quyết
định
của
cơ
quan,
cá
nhân
có
thẩm
quyền
trong
hoạt
động
tư
pháp
có
vi
phạm
pháp
luật
nghiêm
trọng,
xâm
phạm
quyền
con
người,
quyền
công
dân,
lợi
ích
của
Nhà
nước,
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
tổ
chức,
cá
nhân”.
4.
Về
thời
hạn
kháng
nghị
phúc
thẩm
Điều
280
Bộ
luật
tố
tụng
dân
sự
năm
2015
quy
định
về
thời
hạn
kháng
nghị
như
sau:
-
Thời
hạn
kháng
nghị
của
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp
đối
với
bản
án
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
là
15
ngày,
của
Viện
kiểm
sát
cấp
trên
trực
tiếp
là
01
tháng,
kể
từ
ngày
tuyên
án.
Trường
hợp
Kiểm
sát
viên
không
tham
gia
phiên
tòa
thì
thời
hạn
kháng
nghị
tính
từ
ngày
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp
nhận
được
bản
án.
-
Thời
hạn
kháng
nghị
của
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp
đối
với
quyết
định
tạm
đình
chỉ,
quyết
định
đình
chỉ
giải
quyết
vụ
án
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
là
07
ngày,
của
Viện
kiểm
sát
cấp
trên
trực
tiếp
là
10
ngày,
kể
từ
ngày
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp
nhận
được
quyết
định.
II.
Kỹ
năng
thực
hiện
quyền
kháng
nghị
phúc
thẩm
Để
thực
hiện
có
hiệu
quả
quyền
kháng
nghị
phúc
thẩm
của
Viện
kiểm
sát
thì
mỗi
Kiểm
sát
viên
cần
có
một
số
kỹ
năng
sau:
1. Nắm
vững
các
quy
định
của
Bộ
luật
tố
tụng
dân
sự
năm
2015,
thực
hiện
tốt
công
tác
kiểm
sát
ngay
từ
khâu
thụ
lý
đơn
khởi
kiện,
lập
hồ
sơ
của
Tòa
án,
xem
xét
đương
sự
có
quyền
khởi
kiện
hay
không,
thời
hiệu
khởi
kiện
còn
hay
đã
hết,
có
thuộc
thẩm
quyền
của
Tòa
án
đã
thụ
lý
vụ
án
đó
hay
không.
2. Đối
với
các
trường
hợp
Viện
kiểm
sát
tham
gia
phiên
tòa,Kiểm
sát
viên
phải
nghiên
cứu
kỹ
hồ
sơ,
tiến
hành
lập
hồ
sơ
kiểm
sát
theo
hướng
dẫn
của
Ngành.
Lưu
ý
mỗi
loại
tranh
chấp
có
đặc
điểm
khác
nhau,
nên
cần
lựa
chọn
phương
pháp
nghiên
cứu,
xem
xét,
đánh
giá
chứng
cứ
cho
phù
hợp;
cần
nghiên
cứu
kỹ,
toàn
diện
và
trích
sao
đầy
đủ
các
tài
liệu,
chứng
cứ,
lời
khai
của
đương
sự
để
phục
vụ
cho
công
tác
kiểm
sát
bản
án
sau
khi
tham
gia
phiên
toà.
Qua
nghiên
cứu
hồ
sơ,
Kiểm
sát
viên
phải
xem
xét
việc
Tòa
án
đã
tiến
hành
xác
minh,
thu
thập
chứng
cứ,
tài
liệu
đầy
đủ
chưa
để
giải
quyết
đúng
các
yêu
cầu
khởi
kiện
của
đương
sự
đảm
bảo
việc
giải
quyết
vụ
án
một
cách
khách
quan,
đúng
quy
định
của
pháp
luật.
- Khi
tham
gia
phiên
toà,
Kiểm
sát
viên
phải
nắm
chắc
các
tài
liệu,
chứng
cứ
có
trong
hồ
sơ
vụ
án
cũng
như
các
văn
bản
pháp
luật
có
liên
quan.
Trường
hợp
chứng
cứ
còn
mâu
thuẫn
thì
tại
phiên
tòa,
Kiểm
sát
viên
tham
gia
hỏi
để
làm
sáng
tỏ
những
mâu
thuẫn,
vướng
mắc.
Kiểm
sát
viên
phải
chủ
động
báo
cáo
với
Lãnh
đạo
Viện
về
diễn
biến
tại
phiên
tòa
đối
với
các
tình
huống
phát
sinh
làm
thay
đổi
cơ
bản
nội
dung
vụ
án
so
với
đường
lối
giải
quyết
vụ
án
mà
Lãnh
đạo
duyệt,
chú
ý
lắng
nghe
nội
dung
của
bản
án
mà
chủ
tọa
phiên
tòa
đã
tuyên.
-
Sau
khi
kết
thúc
phiên
tòa,
Kiểm
sát
viên
cần
kịp
thời
báo
cáo
về
kết
quả
xét
xử,
đề
xuất
với
Lãnh
đạo
khi
có
vi
phạm
nghiêm
trọng
về
pháp
luật
tố
tụng
và
việc
áp
dụng
pháp
luật
nội
dung
để
thực
hiện
thẩm
quyền
kháng
nghị;
phải
thực
hiện
việc
kiểm
sát
các
bản
án,
Quyết
định
của
Tòa
án
kịp
thời,
đảm
bảo
100%
các
bản
án,
Quyết
định
đều
được
lập
phiếu
kiểm
sát
đầy
đủ,
đúng
quy
định.
3.
Đối
với
các
trường
hợp
Viện
kiểm
sát
không
tham
gia
phiên
tòa,
khi
kiểm
sát
bản
án
Kiểm
sát
viên
cần
tập
trung
vào
việc
Tòa
án
đã
xác
định
đầy
đủ,
đúng
các
quan
hệ
tranh
chấp
hay
chưa,
các
yêu
cầu
khởi
kiện
của
đương
sự,những
người
tham
gia
tố
tụng
trong
vụ
án;
xem
xét
phần
nhận
định
của
Tòa
án
có
căn
cứ,
phù
hợp
với
các
chứng
cứ
tài
liệu
đề
cập
trong
nội
dung
vụ
ánkhông;
phần
quyết
định
của
bản
án
đã
giải
quyết
hết,
đúng
những
yêu
cầu
mà
đương
sự
khởi
kiện
đề
nghị
Tòa
án
giải
quyết
chưa;
việc
giải
quyết
có
phù
hợp
với
các
quy
định
của
pháp
luật
không;
sau
đó
xem
xét
về
nghĩa
vụ
chịu
án
phí
của
các
đương
sự,
cuối
cùng
là
xem
xét
về
tính
khả
thi
của
bản
án
để
đảm
bảo
quyền
lợi
của
người
được
thi
hành
án.
-
Đối
với
quyết
định
tạm
đình
chỉ,
đình
chỉ,
phải
xem
xét
căn
cứ
để
tạm
đình
chỉ,
đình
chỉ
có
đúng
quy
định
của
pháp
luật
không;
quyết
định
có
nêu
hậu
quả
của
việc
tạm
đình
chỉ,
đình
chỉ
không;
việc
xử
lý
tạm
ứng
án
phí
có
đúng
quy
định
không…
-
Qua
công
tác
kiểm
sát
bản
án,
quyết
định,
nếu
phát
hiện
có
dấu
hiệu
vi
phạm
thì
Kiểm
sát
viên
phải
yêu
cầu
Tòa
án
chuyển
hồ
sơ
để
Viện
kiểm
sát
nghiên
cứu.
Nếu
xét
thấy
bản
án,
quyết
định
có
vi
phạm
nghiêm
trọng
thì
Kiểm
sát
viên
phải
kịp
thời
đề
xuất,
báo
cáo
Lãnh
đạo
kháng
nghị
theo
quy
định
của
pháp
luật.
4.
Thông
qua
công
tác
nghiên
cứu
hồ
sơ
và
kiểm
sát
bản
án,
quyết
định,
Kiểm
sát
viên
được
phân
công
kiểm
sát
vụ
án
phát
hiện
có
dấu
hiệu
vi
phạm
pháp
luật,
nhưng
vi
phạm
đó
không
thể
hiện
rõ
trong
hồ
sơ,
trong
bản
án,
quyết
định
thì
Kiểm
sát
viên
cần
tự
mình
thu
thập
chứng
cứ
để
có
cơ
sở
vững
chắc,
đảm
bảo
cho
việc
thực
hiện
thẩm
quyền
kháng
nghị
theo
thủ
tục
phúc
thẩm
của
Viện
kiểm
sáttheo
quy
định
tại
Khoản
3
Điều
58
và
Khoản
6
Điều
97
Bộ
luật
tố
tụng
dân
sự
năm
2015.
5.
Trường
hợp
không
còn
thời
hạn
để
xem
xét,
kháng
nghị
phúc
thẩm
theo
thẩm
quyền
của
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp
thì
phải
kịp
thời
báo
cáo
Viện
kiểm
sát
cấp
trên
trực
tiếp
để
tiếp
tục
xem
xét,
giải
quyết
theo
thẩm
quyền.
III.
Thực
trạng
công
tác
kháng
nghị
phúc
thẩm
của
Viện
kiểm
sát
hai
cấp
tỉnh
Tuyên
Quang
từ
năm
2015
đến
năm
2017
1.
Những
kết
quả
đã
đạt
được
Trong
những
năm
qua,
công
tác
kiểm
sát
việc
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự,
hôn
nhân
và
gia
đình
trong
ngành
Kiểm
sát
Tuyên
Quang
đã
đạt
được
những
kết
quả
tích
cực.
Viện
kiểm
sát
02
cấp
đã
kịp
thời
phát
hiện
nhiều
vi
phạm
của
Tòa
án
trong
quá
trình
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự,
ban
hành
nhiều
kiến
nghị,
kháng
nghị
yêu
cầu
Tòa
án
khắc
phục
vi
phạm,
bảo
đảm
việc
giải
quyết
vụ
án
dân
sự
của
Tòa
án
kịp
thời,
đúng
quy
định
của
pháp
luật.
Theo
số
liệu
thống
kê
từ
năm
2015
đến
năm
2017,
Viện
kiểm
sát
hai
cấp
tỉnh
Tuyên
Quang
đã
kiểm
sát
1.863
bản
án,
quyết
định
đình
chỉ
và
tạm
đình
chỉ
của
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm.
Qua
công
tác
kiểm
sát,Viện
kiểm
sát
đã
ban
hành
13
quyết
định
kháng
nghị
phúc
thẩm
(trong
đó:
cấp
huyện
03,
cấp
tỉnh
10).
Nội
dung
kháng
nghị
chủ
yếu
gồm
các
dạng
vi
phạm
như:
Không
đưa
người
có
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
liên
quan
tham
gia
tố
tụng;
việc
đánh
giá
chứng
cứ
chưa
đầy
đủ,
không
khách
quan;
Tòa
án
tuyên
hợp
đồng
vô
hiệu
nhưng
không
giải
quyết
hậu
quả
của
hợp
đồng
vô
hiệu;
vi
phạm
trong
việc
giải
quyết
vượt
quá
hoặc
không
giải
quyết
hết
yêu
cầu
khởi
kiệncủa
đương
sự;
vi
phạm
trong
việc
xác
định
thời
hiệu
khởi
kiện;
việc
tính
lãi
suất,
án
phí
có
giá
ngạch
không
đúng
quy
định
của
pháp
luật…
Qua
xét
xử,
Tòa
án
cấp
phúc
thẩm
chấp
nhận
12/12
vụ,
01
vụ
Tòa
án
cấp
phúc
thẩm
chưa
xét
xử.
Kết
quả
công
tác
kháng
nghị
của
Viện
kiểm
sát
đã
góp
phần
bảo
vệ
lợi
ích
của
Nhà
nước,
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
đương
sự.
2.
Những
hạn
chế,
thiếu
sót
và
nguyên
nhân
2.1.
Những
hạn
chế,
thiếu
sót
Bên
cạnh
những
kết
quả
tích
cực,
công
tác
kháng
nghị
phúc
thẩm
trong
việc
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự
của
Viện
kiểm
sát
hai
cấp
còn
hạn
chế
như:
Số
bản
án,
quyết
định
có
vi
phạm
pháp
luật
mà
Viện
kiểm
sát
phát
hiện
được
để
kháng
nghị
còn
đạt
tỷ
lệ
thấp
so
với
số
bản
án,
quyết
định
bị
Hội
đồng
xét
xử
phúc
thẩm
tuyên
sửa,
hủy
án
(số
kháng
nghị
trên
số
án
bị
Tòa
án
cấp
phúc
thẩm
hủy,
sửa
là
13/65
chiếm
tỷ
lệ
20%).
2.2.
Nguyên
nhân
của
hạn
chế,
thiếu
sót
2.2.1.
Nguyên
nhân
khách
quan
Các
quy
định
của
pháp
luật
trong
lĩnh
vực
dân
sự
còn
nhiều
bất
cập,
chỉ
mang
tính
khái
quát
mà
chưa
cụ
thể
dẫn
đến
tình
trạng
hiểu
theo
nhiều
cách
hiểu
khác
nhau
nên
khi
giải
quyết
những
vụ
án
có
liên
quan
đến
vấn
đề
nhận
thức
thì
còn
mang
tính
chủ
quan,
không
thống
nhất.
2.2.2.
Nguyên
nhân
chủ
quan
-
Công
tác
chỉ
đạo,
điều
hành
ở
một
số
ít
Viện
kiểm
sát
cấp
huyện
có
lúc
còn
thiếu
kiểm
tra
đôn
đốc;
cán
bộ,
Kiểm
sát
viên
còn
phải
kiêm
nhiệm
các
công
tác
khác
nên
hiệu
quả
công
tác
kiểm
sát
chưa
được
bảo
đảm.
-
Có
cán
bộ,
Kiểm
sát
viên
ý
thức
trách
nhiệm
chưa
cao,
chưa
chịu
khó
tìm
tòi,
học
hỏi,
cập
nhật,
nghiên
cứu
các
quy
định
mới
của
pháp
luật
để
ứng
dụng
vào
công
việc,
trình
độ
năng
lực
còn
hạn
chế;
việc
nghiên
cứu
hồ
sơ
chưa
đảm
bảo
nên
khi
thực
hiện
kiểm
sát
bản
án,
quyết
định
không
phát
hiện
được
vi
phạm
để
tham
mưu
cho
Lãnh
đạo
Viện
thực
hiện
quyền
kháng
nghị.
-
Công
tác
thực
hiện
quyền
yêu
cầu
chưa
được
quan
tâm
thực
hiện
cũng
ảnh
hưởng
một
phần
không
nhỏ
đến
chất
lượng
công
tác
kiểm
sát
cũng
như
số
lượng
kháng
nghị.
*
Từ
thực
tiễn
công
tác
kiểm
sát
việc
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự
trong
những
năm
qua,
dự
báo
tình
hình
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự
trong
thời
gian
tới:
Việc
thụ
lý,
giải
quyết
các
tranh
chấp
dân
sự
có
chiều
hướng
gia
tăng
và
diễn
biến
ngày
càng
phức
tạp.
Bên
cạnh
đó,
nhận
thức
pháp
luật
của
công
dân
ngày
càng
cao,
đòi
hỏi
phải
giải
quyết
nhanh
chóng
và
thỏa
đáng
các
tranh
chấp
để
đảm
bảo
quyền
và
lợi
ích
của
họ.
Tuy
nhiên,
trong
quá
trình
giải
quyết
của
Tòa
án
còn
nhiều
sai
sót
dẫn
đến
có
vụ
án
phải
xét
xử
nhiều
lần,
ở
nhiều
cấp
nhưng
không
được
giải
quyết
dứt
điểm,
thời
gian
giải
quyết
kéo
dài
và
kết
quả
xét
xử
không
thống
nhất
gây
bức
xúc
cho
nhân
dân
dẫn
đến
tình
trạng
đơn
thư
khiếu
kiện
gia
tăng.
IV.
Một
số
giải
pháp
để
thực
hiện
tốt
quyền
kháng
nghị
phúc
thẩm
trong
thời
gian
tới
Thông
qua
việc
đưa
ra
những
nguyên
nhân
của
hạn
chế,
thiếu
sót
và
dự
báo
tình
hình
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự
trong
thời
gian
tới,
tôi
xin
nêu
một
số
giải
pháp
để
thực
hiện
tốt
công
tác
kiểm
sát
việc
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự
và
tăng
cường
công
tác
kháng
nghị
phúc
thẩm
như
sau:
1.
Tăng
cường
công
tác
lãnh,chỉ
đạo
của
Lãnh
đạo
Viện
kiểm
sát
các
cấp,
gắn
trách
nhiệm
của
Viện
trưởng
Viện
kiểm
sát
có
thẩm
quyền
trong
việc
kháng
nghị
phúc
thẩm
các
bản
án,
quyết
định
của
Tòa
án
cùng
cấp;
tổ
chức
họp
rút
kinh
nghiệm
đối
với
các
vụ
việc
dân
sự
bị
Tòa
án
cấp
phúc
thẩm
xử
hủy,
sửa
án
có
lỗi
của
Kiểm
sát
viên
để
nâng
cao
hơn
nữa
chất
lượng
công
tác;
hạn
chế
đến
mức
thấp
nhất
các
trường
hợp
bản
án,
quyết
định
bị
sửa,
hủy
có
trách
nhiệm
của
Viện
kiểm
sát
nhưng
không
được
phát
hiện
để
thực
hiện
quyền
kháng
nghị.
2. Viện
kiểm
sát
các
cấp
cần
bám
sát
và
tổ
chức
thực
hiện
tốt
các
nhiệm
vụ
đã
nêu
trong
Chỉ
thị
số
10/CT-VKSTC
ngày
06/4/2016
của
Viện
trưởng
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tối
cao“Về
tăng
cường
công
tác
kháng
nghị
phúc
thẩm,
giám
đốc
thẩm,
tái
thẩm
các
vụ
việc
dân
sự,
vụ
án
hành
chính”.
3.
Chú
trọng
tăng
cường
cán
bộ,
Kiểm
sát
viên
chuyên
sâu
trong
công
tác
này
cùng
với
việc
quan
tâm,
bồi
dưỡng,
đào
tạo
những
cán
bộ,
Kiểm
sát
viên
trẻ
có
năng
lực,
bảo
đảm
thực
hiện
tốt
chức
năng,
nhiệm
vụ
của
Ngành.
4.
Cán
bộ,
Kiểm
sát
viên
phải
tăng
cường
trách
nhiệm,
nêu
cao
ý
thức
tự
nghiên
cứu,học
tập,
trao
đổi
kinh
nghiệm
công
tác
với
đồng
nghiệp
để
nâng
cao
trình
độ
chuyên
môn
nghiệp
vụ,
nắm
chắc
các
quy
định
của
pháp
luật
để
thực
hiện
tốt
chức
năng,
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
của
Viện
kiểm
sát.
Phối
hợp
chặt
chẽ
hoạt
động
của
Kiểm
sát
viên
trước,
trong
và
sau
phiên
tòa
sơ
thẩm
với
việc
kiểm
sát
bản
án,
quyết
định
của
Tòa
án
để
kịp
thời
phát
hiện
vi
phạm;
thực
hiện
có
hiệu
quả
các
quyền
của
Viện
kiểm
sát,
chú
trọng
quyền
yêu
cầu,thu
thập
chứng
cứ
khi
nhận
thấy
chưa
có
đầy
đủ
căn
cứ
để
giải
quyết
vụ
việc
một
cách
đúng
đắn,
khách
quan,trên
cơ
sở
đó
thực
hiện
tốt
quyền
kháng
nghị
của
Viện
kiểm
sát.
5.
Tăng
cường
quan
hệ
phối
hợp
với
Tòa
án
cùng
cấp,
xây
dựng
Quy
chế
phối
hợp
giữa
Viện
kiểm
sát
và
Tòa
án
phù
hợp
với
quy
định
mới
của
pháp
luật
và
chức
năng,
nhiệm
vụ
của
mỗi
ngành,
bảo
đảm
để
cán
bộ,
Kiểm
sát
viên
thực
hiện
tốt
nhiệm
vụ.
6.
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tỉnh
tăng
cường
công
tác
theo
dõi,
kiểm
tra,
hướng
dẫn,
chỉ
đạo
nghiệp
vụ
đối
với
Viện
kiểm
sát
các
huyện,
thành
phố
để
kịp
thời
phát
hiện
những
hạn
chế,
yếu
kém
của
các
đơn
vị
chưa
làm
tốt,
chỉ
rõ
nguyên
nhân,
đề
ra
giải
pháp
khắc
phục
triệt
để
những
hạn
chế,
thiếu
sót
đã
phát
hiện
qua
kiểm
tra;
tổ
chức
cho
các
đơn
vị
học
tập
kinh
nghiệm
đối
với
những
đơn
vị
làm
tốt
công
tác
này;
ban
hành
thông
báo
rút
kinh
nghiệm
nghiệp
vụ
và
tăng
cường
giải
đáp,
hướng
dẫn
thống
nhất
nhận
thức
về
pháp
luật
trong
toàn
Ngành.
7.
Thường
xuyên
trao
đổi
những
vướng
mắc,
những
kinh
nghiệm,
kỹ
năng
trong
công
tác
kiểm
sát
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự
giữa
Viện
kiểm
sát
hai
cấp.
Trên
đây
là
một
số
kỹ
năngthực
hiện
quyền
kháng
nghị
phúc
thẩm
của
Viện
kiểm
sát
trong
việc
giải
quyết
các
vụ
án
dân
sự
của
tôi.
Rất
mong
nhận
được
ý
kiến
đóng
góp
của
các
đồng
chí
để
chuyên
đề
được
hoàn
thiện
hơn.
Phạm
Thị
Việt
Anh.