Nội
dung:
Theo
bản
án
sơ
thẩm,
ngày
20/9/2012,
anh
Ngô
Đình
T
và
chị
Nguyễn
Thị
Kim
X
nhận
chuyển
nhượng
nhà
và
đất
của
bà
Dương
Thị
M
tại
thị
trấn
D,
huyện
S,
tỉnh
T.
Khi
nhận
chuyển
nhượng
các
bên
viết
Giấy
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
(giấy
có
xác
nhận
của
Tổ
trưởng
tổ
dân
phố),
giá
chuyển
nhượng
là
170.000.000
đồng,
các
bên
thỏa
thuận
để
bà
M
ở
lại
nhà
đất
trên
trong
thời
gian
01
tháng.
Nhưng
do
anh
T,
chị
X
chưa
thanh
toán
hết
tiền
cho
bà
M
nên
bà
M
chưa
giao
nhà
đất
cho
anh
T
và
chị
X.
Ngày
31/10/2012,
anh
T
và
chị
X
chuyển
nhượng
nhà
đất
trên
cho
ông
Vũ
Đình
P
và
bà
Bùi
Thị
Hoàng
M,
hai
bên
có
viết
Giấy
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
tài
sản
trên
đất
trên
đất
với
giá
350.000.000
đồng,
giấy
có
chữ
ký
của
các
bên
và
chữ
ký
của
Tổ
trưởng
tổ
dân
phố,
có
xác
nhận
của
UBND
thị
trấn
D
(nội
dung
xác
nhận
chữ
ký
của
Tổ
trưởng
tổ
dân
phố
là
đúng,
đề
nghị
hai
bên
thực
hiện
các
thủ
tục
theo
quy
định
của
pháp
luật).
Tuy
nhiên,
do
anh
T,
chị
X
chưa
trả
hết
tiền
cho
bà
M
nên
hiện
tại
bà
M
vẫn
quản
lý,
sử
dụng
nhà
đất.
Vì
vậy,
ông
P
và
bà
M
có
đơn
khởi
kiện
ra
Tòa
án
nhân
dân
huyện
S
yêu
cầu
anh
T
và
chị
X
có
nghĩa
vụ
giao
toàn
bộ
nhà
đất
cho
ông
P
và
bà
M
theo
hợp
đồng
đã
ký.
Trong
trường
hợp
anh
T,
chị
X
không
thể
giao
được
nhà
đất
thì
phải
trả
lại
tiền
tương
đương
với
giá
trị
của
nhà
đất
theo
giá
thị
trường
do
Tòa
án
quyết
định.
Đất
có
tranh
chấp
theo
bản
đồ
giải
thửa
299
diện
tích
650,6m2;
theo
đo
đạc
hiện
trạng
đất
năm
2012
diện
tích
674m2;
theo
kết
quả
đo
đạc
hiện
trạng
diện
tích
674,7m2;
nguồn
gốc
thửa
đất
do
Công
ty
cổ
phần
chè
T
quản
lý
và
giao
quyền
sử
dụng
cho
bà
Dương
Thị
M.
Khi
được
giao
đất
bà
M
được
cấp
01
sổ
bìa
xanh,
chưa
được
cấp
Giấy
chứng
nhận
quyền
sử
dụng
đất.
Bản
án
sơ
thẩm
của
Tòa
án
nhân
dân
huyện
S,
quyết
định:
1.
Chấp
nhận
một
phần
yêu
cầu
khởi
kiện
của
nguyên
đơn
tuyên
xử:
-
Giấy
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
ngày
20/9/2012
giữa
bà
Dương
Thị
M,
anh
Nguyễn
Xuân
Th,
chị
Đỗ
Thị
N
với
anh
Ngô
Đình
T,
chị
Nguyễn
Thị
Kim
X
và
Giấy
chuyển
nhượng
QSD
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
ngày
31/10/2012
giữa
anh
Ngô
Đình
T,
chị
Nguyễn
Thị
Kim
X
với
ông
Vũ
Đình
P,
bà
Bùi
Thị
Hoàng
M
vô
hiệu.
-
Buộc
anh
Ngô
Đình
T
và
chị
Nguyễn
Thị
Kim
X
cùng
có
trách
nhiệm
trả
cho
ông
Vũ
Đình
P
và
bà
Bùi
Thị
Hoàng
M
số
tiền
chuyển
nhượng
QSD
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
tương
đương
giá
trị
của
tài
sản
là
700.000.000
đồng.
-
Bà
Dương
Thị
M
được
quyền
sử
dụng
674,7m2
đất
tại:
Thửa
90,
tờ
bản
đồ
số
117
thuộc
tổ
dân
phố
ĐK,
thị
trấn
D,
huyện
S,
tỉnh
T
và
toàn
bộ
tài
sản
gắn
liền
với
đất.
Bà
Dương
Thị
M
có
nghĩa
vụ
đăng
ký
quyền
sử
dụng
đất
và
phải
chịu
nghĩa
vụ
về
tài
chính
với
nhà
nước
theo
quy
định
của
pháp
luật.
-
Giành
quyền
khởi
kiện
vụ
án
dân
sự
khác
cho
anh
Ngô
Đình
T
và
chị
Nguyễn
Thị
Kim
X
kiện
đòi
lại
số
tiền
mua
bán
chuyển
nhượng
nhà
đất
với
bà
Dương
Thị
M
theo
giấy
giao
tiền
chuyển
nhượng
nhà
đất
ngày
20/9/2012.
Ngoài
ra
bản
án
còn
tuyên
về
chi
phí
tố
tụng,
án
phí
và
quyền
kháng
cáo
của
các
đương
sự.
Quá
trình
kiểm
sát
bản
án
và
nghiên
cứu
hồ,
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
tỉnh
T
thấy:
Ngày
20/9/2012,
bà
Dương
Thị
M
chuyển
nhượng
toàn
bộ
diện
tích
đất
và
tài
sản
gắn
liền
trên
đất
cho
anh
Ngô
Đình
T
và
chị
Nguyễn
Thị
Kim
X
với
giá
170.000.000
đồng,
anh
T,
chị
X
mới
trả
được
50.000.000
đồng,
hẹn
trong
01
tháng
sẽ
trả
nốt
số
tiền
còn
lại
là
120.000.000
đồng,
hai
bên
thoả
thuận
cho
bà
M
mượn
lại
nhà
ở
trong
thời
gian
01
tháng
chờ
con
trai
bà
M
xây
xong
nhà
thì
chuyển
bà
M
về
tại
tỉnh
QN
ở.
Đến
hẹn
anh
T,
chị
X
không
trả
hết
tiền
cho
bà
M,
nhưng
ngày
31/10/2012
anh
T
và
chị
X
chuyển
lại
nhà
đất
trên
cho
ông
Vũ
Đình
P
và
bà
Bùi
Thị
Hoàng
M.
Việc
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
giữa
các
bên
có
viết
giấy
tờ,
có
xác
nhận
của
Tổ
trưởng
tổ
dân
phố.
Trước
khi
thực
hiện
việc
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
cho
ông
P,
bà
M
thì
diện
tích
đất
trên
vẫn
thuộc
quyền
sử
dụng
của
bà
M,
chưa
thuộc
quyền
sử
dụng
của
anh
T,
chị
X.
Thời
điểm
bà
M
viết
Giấy
chuyển
nhượng
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
cho
anh
T
và
chị
X
thì
bà
M
chưa
được
cấp
Giấy
chứng
nhận
quyền
sử
dụng
đất,
bà
M
chưa
giao
nhà
cho
anh
T,
chị
X
và
anh
T,
chị
X
cũng
chưa
trả
đủ
tiền
cho
bà
M
theo
thoả
thuận;
anh
T,
chị
X
cũng
chưa
làm
thủ
tục
để
được
cấp
Giấy
chứng
nhận
quyền
sử
dụng
đất,
nhưng
anh
T
và
chị
X
lại
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
cho
ông
P
và
bà
M.
Do
đó
việc
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
trên
của
các
đương
sự
không
đúng
quy
định
tại
khoản
1,
Điều
106
Luật
Đất
đai
năm
2003.
Việc
Toà
án
nhân
dân
huyện
S
tuyên
xử
Giấy
chuyển
nhượng
quyền
sử
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
ngày
31/10/2012
giữa
anh
Ngô
Đình
T
và
chị
Nguyễn
Thị
Kim
X
với
ông
Vũ
Đình
P
và
bà
Bùi
Thị
Hoàng
M
vô
hiệu
là
có
căn
cứ.
Tuy
nhiên,
việc
giải
quyết
hậu
quả
của
hợp
đồng
vô
hiệu
chưa
đúng
quy
định
của
pháp
luật,
bởi
lẽ:
Khi
viết
Giấy
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
ông
P
và
bà
M
biết
rõ
nguồn
gốc
đất
do
anh
T
và
chị
X
nhận
chuyển
nhượng
của
bà
M
ngày
20/9/2012,
do
anh
T,
chị
X
chưa
trả
hết
tiền
nên
bà
M
vẫn
đang
quản
lý,
sử
dụng
nhà
đất,
chưa
bàn
giao
cho
anh
T,
chị
X,
chưa
làm
các
thủ
tục
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
theo
quy
định
của
pháp
luật,
anh
T
và
chị
X
chưa
có
Giấy
chứng
nhận
quyền
sử
dụng
đất,
nhưng
giữa
anh
T,
chị
X
với
ông
P,
bà
M
thực
hiện
việc
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất.
Như
vậy
các
bên
đương
sự
đều
có
lỗi,
nhưng
Tòa
cấp
sơ
thẩm
xác
định
lỗi
hoàn
toàn
thuộc
về
anh
T
và
chị
X
buộc
anh
T
và
chị
X
phải
chịu
trách
nhiệm
toàn
bộ
lỗi
do
hợp
đồng
bị
tuyên
vô
hiệu
là
không
đúng
quy
định
tại
khoản
2,
khoản
4,
Điều
131
Bộ
luật
dân
sự;
Nghị
quyết
số
01/2003/NQ-HĐTP
ngày
16/4/2003
của
Hội
đồng
Thẩm
phán
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
hướng
dẫn
áp
dụng
pháp
luật
trong
việc
giải
quyết
một
số
loại
tranh
chấp
dân
sự,
hôn
nhân
và
gia
đình.
Khi
tuyên
bố
hợp
đồng
mua
bán
nhà
ở
vô
hiệu,
về
nguyên
tắc
chung
khi
giải
quyết
hậu
quả
của
hợp
đồng
vô
hiệu
“…
thì
các
bên
khôi
phục
lại
tình
trạng
ban
đầu,
hoàn
trả
cho
nhau
những
gì
đã
nhận”,
theo
quy
định
tại
khoản
2,
Điều
131
Bộ
luật
dân
sự
và
xác
định
thiệt
hại
“Bên
có
lỗi
gây
thiệt
hại
thì
phải
bồi
thường”,
theo
khoản
4,
Điều
131
Bộ
luật
dân
sự
năm
2015.
Quá
trình
giải
quyết
vụ
án,
nguyên
đơn
ông
P
và
bà
M
trình
bày
nhận
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
với
anh
T
và
chị
X
giá
chuyển
nhượng
là
350.000.000
đồng.
Anh
T,
chị
X
trình
bày
do
hoàn
cảnh,
anh
chị
có
vay
của
ông
P,
bà
M
số
tiền
100.000.000
đồng
chữa
bệnh
cho
con
gái,
sau
đó
không
trả
được
nên
ông
P
đã
yêu
cầu
anh
T
chuyển
nhượng
lại
nhà
đất
trên.
Qua
trình
bày
của
các
đương
sự
có
mâu
thuẫn
trong
việc
giữa
các
bên
viết
Giấy
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
giá
trị
nhà
đất,
cũng
như
không
có
căn
cứ
xác
định
anh
T
và
chị
X
đã
nhận
đủ
số
tiền
350.000.000
đồng
như
nguyên
đơn
trình
bày,
nhưng
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
tuyên
buộc
anh
T
và
chị
X
có
nghĩa
vụ
trả
lại
tiền
cho
ông
P
và
bà
M
tương
đương
giá
trị
tài
sản
theo
kết
quả
định
giá
ngày
11/8/2022
với
giá
trị
700.000.000
đồng,
chịu
chi
phí
thẩm
định
và
định
giá
tài
sản
6.045.000
đồng,
án
phí
dân
sự
sơ
thẩm
không
có
giá
ngạch
300.000
đồng
và
án
phí
dân
sự
có
giá
ngạch
32.000.000
đồng
là
không
có
căn
cứ,
ảnh
hưởng
đến
quyền
lợi
của
anh
T
và
chị
X.
Ngoài
ra,
nguyên
đơn
ông
Vũ
Đình
P
và
bà
Bùi
Thị
Hoàng
M
có
đơn
khởi
kiện
yêu
cầu
Tòa
án
giải
quyết
buộc
anh
Ngô
Đình
T
và
chị
Nguyễn
Thị
Kim
X
có
nghĩa
vụ
giao
trả
toàn
bộ
nhà
đất
theo
đúng
nội
dung
Giấy
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
lập
ngày
31/10/2012.
Những
người
có
quyền
lợi,
nghĩa
vụ
liên
quan
(bà
M)
không
có
yêu
cầu
độc
lập
nhưng
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
tuyên
xử:
Giấy
chuyển
nhượng
quyền
sử
dụng
đất
và
tài
sản
gắn
liền
với
đất
ngày
20/9/2012
giữa
bà
Dương
Thị
M,
anh
Nguyễn
Xuân
T,
chị
Đỗ
Thị
N
với
anh
Ngô
Đình
T
và
chị
Nguyễn
Thị
Kim
X
vô
hiệu;
bà
M
được
quyền
sử
dụng
674,7m2
đất...
là
vượt
quá
phạm
vi
yêu
cầu
khởi
kiện,
vi
phạm
quyền
quyết
định
và
tự
định
đoạt
của
đương
sự.
Khoản
1,
Điều
5
Bộ
luật
Tố
tụng
dân
sự
quy
định
về
quyền
quyết
định
và
tự
định
đoạt
của
đương
sự:
“1.
Đương
sự
có
quyền
quyết
định
việc
khởi
kiện,
yêu
cầu
Tòa
án
có
thẩm
quyền
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự.
Tòa
án
chỉ
thụ
lý
giải
quyết
vụ
việc
dân
sự
khi
có
đơn
khởi
kiện,
đơn
yêu
cầu
của
đương
sự
và
chỉ
giải
quyết
trong
phạm
vi
đơn
khởi
kiện,
đơn
yêu
cầu
đó”.
Từ
những
vi
phạm,
thiếu
sót
trong
việc
thu
thập
tài
liệu,
đánh
giá
chứng
cứ
và
việc
giải
quyết
vượt
quá
yêu
cầu
khởi
kiện
dẫn
đến
việc
ra
bản
án
không
đúng
quy
định
của
pháp
luật
làm
ảnh
hưởng
đến
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
các
đương
sự,
Viện
KSND
tỉnh
T
đã
ban
hành
kháng
nghị
toàn
bộ
bản
án
sơ
thẩm
của
Toà
án
nhân
dân
huyện
S
theo
hướng
huỷ
bản
án
sơ
thẩm
và
chuyển
hồ
sơ
vụ
án
cho
Toà
án
cấp
sơ
thẩm
giải
quyết
lại
theo
thủ
tục
sơ
thẩm./.
Ngô
Thị
Vỹ
-
Phòng
9
Viện
KSND
tỉnh
Tuyên
Quang