Khoản
1
Điều
2
Luật
khoáng
sản
2010
quy
định:
Khoáng
sản
là
khoáng
vật,
khoáng
chất
có
ích
được
tích
tụ
tự
nhiên
ở
thể
rắn,
thể
lỏng,
thể
khí
tồn
tại
trong
lòng
đất,
trên
mặt
đất,
bao
gồm
cả
khoáng
vật,
khoáng
chất
ở
bãi
thải
của
mỏ.
Nước
ta
là
nước
có
nhiều
tài
nguyên,
khoáng
sản;
nguồn
tài
nguyên
này
được
xác
định
là
nguồn
lực
quan
trọng
để
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội.
Để
quản
lý,
khai
thác,
sử
dụng
có
hiệu
quả
nguồn
tài
nguyên
khoáng
sản
nhằm
mục
đích
phục
vụ
phát
triển
kinh
tế,
xã
hội
của
đất
nước,
trong
những
năm
qua
Nhà
nước
ta
đã
ban
hành
nhiều
văn
bản
quy
phạm
pháp
luật.
Bên
cạnh
các
quy
định
về
thăm
dò,
khai
thác,
sử
dụng
tài
nguyên,
khoáng
sản
theo
quy
định
của
Luật
khoáng
sản
năm
2010
thì
Nhà
nước
cũng
đặt
ra
các
chế
định
xử
lý
đối
với
các
đối
tượng
thực
hiện
hành
vi
vi
phạm
trong
lĩnh
vực
này.
Theo
đó,
tùy
thuộc
vào
mức
độ
thực
hiện
hành
vi
phạm
mà
người
thực
hiện
hành
vi
vi
phạm
bị
xử
lý
vi
phạm
hành
chính
hoặc
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự.
Theo
quy
định
của
Bộ
luật
Hình
sự
năm
2015,
người
thực
hiện
hành
vi
phạm
về
nghiên
cứu,
thăm
dò,
khai
thác
tài
nguyên
sẽ
bị
xem
xét
xử
lý
trách
nhiệm
hình
sự
theo
quy
định
tại
Điều
227
Bộ
luật
Hình
sự,
đây
là
chế
tài
xử
lý
nghiêm
khắc
nhất
đối
với
người
thực
hiện
hành
vi
vi
phạm
trong
lĩnh
vực
tài
nguyên,
khoáng
sản.
Theo
quy
định
tại
Điều
227
Bộ
luật
Hình
sự
2015,
người
thực
hiện
hành
vi
vi
phạm
chỉ
phải
chịu
trách
nhiệm
hình
sự
khi
thực
hiện
một
trong
các
hành
vi
nghiên
cứu,
thăm
dò,
khai
thác
tài
nguyên
trong
đất
liền,
hải
đảo,
nội
thủy,
vùng
lãnh
hải,
vùng
đặc
quyền
kinh
tế,
thềm
lục
địa
và
vùng
trời
của
Việt
Nam
mà
không
có
giấy
phép
hoặc
không
đúng
với
nội
dung
giấy
phép
thuộc
một
trong
các
trường
hợp
thu
lợi
bất
chính
từ
100.000.000
đống
đến
dưới
500.000.000
đồng;
khoáng
sản
trị
giá
từ
500.000.000
đồng
đến
dưới
1.000.000.000
đồng;
gây
thương
tích
hoặc
gây
tổn
hại
cho
sức
khỏe
của
người
khác
mà
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
61%
trở
lên;
gây
thương
tích
hoặc
gây
tổn
hại
cho
sức
khỏe
của
02
người
trở
lên
mà
tổng
tỷ
lệ
tổn
thương
cơ
thể
của
những
người
này
từ
61%
đến
121%;
đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
về
một
trong
các
hành
vi
quy
định
tại
Điều
này
hoặc
đã
bị
kết
án
về
tội
này,
chưa
được
xóa
án
tích
mà
còn
vi
phạm.
Thực
tế
hiện
nay
tình
trạng
mua
bán,
vận
chuyển,
tàng
trữ
trái
phép
khoáng
sản
diễn
ra
ngày
càng
nhiều,
khối
lượng,
giá
trị
khoảng
sản
mua
bán,
vận
chuyển,
tàng
trữ
với
số
lượng
lớn,
thu
lợi
bất
chính
hàng
tỷ
đồng.
Đối
với
các
hành
vi
này
người
thực
hiện
hành
vi
phạm
chỉ
phải
chịu
trách
nhiệm
hình
sự
nếu
chứng
minh
được
người
thực
hiện
hành
vi
phạm
đồng
phạm
với
người
thực
hiện
một
trong
các
hành
vi
vi
phạm
quy
định
về
nghiên
cứu,
thăm
dò,
khai
thác
tài
nguyên
hoặc
người
thực
hiện
hành
vi
mua
bán,
vận
chuyển
biết
rõ
nguồn
gốc
khoáng
sản
hình
thành
do
thực
hiện
hành
vi
trái
pháp
luật
mà
có
thì
có
thể
bị
xử
lý
về
tội
Chứa
chấp
hoặc
tiêu
thụ
tài
sản
do
người
khác
phạm
tội
mà
có,
theo
quy
định
tại
Điều
323
Bộ
luật
Hình
sự.
Tuy
nhiên
nếu
loại
trừ
các
trường
hợp
nêu
trên,
người
thực
hiện
hành
vi
vi
phạm
đơn
thuần
trong
việc
mua
bán,
vận
chuyển,
tàng
trữ
trái
phép
khoáng
sản
thì
người
thực
hiện
các
hành
vi
này
không
bị
xem
xét
xử
lý
trách
nhiệm
hình
sự
mà
chỉ
bị
xem
xét,
xử
lý
theo
chế
tài
xử
lý
vi
phạm
hành
chính
quy
định
tại
Nghị
định
số
36/2020/NĐ-CP
ngày
24
tháng
3
năm
2020
cuả
Chính
phủ,
hoặc
Nghị
định
số
98/2020/NĐ-CP
ngày
26/8/2020
của
Chính
phủ
nên
chưa
đủ
sức
răn
đe,
phòng
ngừa
vi
phạm.
Ví
dụ:
Khoảng
tháng
01
năm
2023,
Nguyễn
Văn
A
thấy
diện
tích
đất
rừng
của
gia
đình
mình
có
khoáng
sản
là
quặng
antimon
nên
A
nảy
sinh
ý
định
khai
thác
đem
bán
cho
Ngô
Ngọc
D
vì
A
biết
D
thu
mua
quặng
Antinmon.
Sau
khi
thỏa
thuận,
D
đồng
ý
mua
quặng
của
A
với
giá
16.000đ/kg.
Ngày
15/01/2023,
A
bán
cho
D
10
tấn
quặng
Antinmon
được
160.000.000
đồng.
Sau
khi
mua
quặng
từ
A,
D
vận
chuyển
số
quặng
antimon
nêu
trên
đi
tìm
nơi
tiêu
thụ
thì
bị
Cơ
quan
Công
an
phát
hiện,
lập
biên
bản.
Thông
qua
ví
dụ
cụ
thể
nêu
trên
thì
hành
vi
của
Nguyễn
Văn
A
đã
cấu
thành
tội
Vi
phạm
về
nghiên
cứu,
thăm
dò,
khai
thác
tài
nguyên
quy
định
tại
tại
điểm
a
(thu
lợi
bất
chính
từ
khai
thác
khoáng
sản
từ
100.000.000
đồng
đến
dưới
500.000.000
đồng)
khoản
1
Điều
227
Bộ
luật
Hình
sự.
Tuy
nhiên
hành
vi
mua
bán,
vận
chuyển
trái
phép
khoảng
sản
của
Ngô
Ngọc
D
lại
không
bị
xem
xét,
xử
lý
trách
nhiệm
hình
sự
mặc
dù
khoáng
sản
D
mua
bán
có
giá
trị
hơn
100.000.000
đồng.
Vì
vậy,
theo
quan
điểm
cá
nhân
tôi,
bên
cạnh
việc
xem
xét
xử
lý
trách
nhiệm
hình
sự
đối
với
các
hành
vi
vi
phạm
quy
định
về
nghiên
cứu,
thăm
dò,
khai
thác
tài
nguyên
cần
bổ
sung
thêm
các
hành
vi
tàng
trữ,
vận
chuyển,
mua
bán
khoáng
sản
trái
phép
vào
quy
định
của
Bộ
luật
Hình
sự
để
xem
xét
xử
lý
trách
nhiệm
hình
sự
mới
đủ
sức
răn
đe,
phòng
ngừa
vi
phạm.
Phạm
Anh
Tuấn
-
VKSND
huyện
Chiêm
Hóa