Thủ
tục
rút
gọn
là
một
dạng
thủ
tục
đặc
biệt
của
tố
tụng
hình
sự
được
quy
định
tại
Chương
XXXI,
Phần
thứ
bảy
của
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
2015
trong
đó
có
sự
giảm
bớt
một
số
khâu,
một
số
thủ
tục
trong
việc
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
vụ
án
hình
sự
nhằm
rút
ngắn
thủ
tục
tố
tụng,
làm
cho
việc
xử
lý
vụ
án
được
nhanh
chóng
nhưng
vẫn
đảm
bảo
đúng
người,
đúng
tội,
đúng
pháp
luật
góp
phần
đấu
tranh
phòng
chống
tội
phạm,
phục
vụ
có
hiệu
quả
nhiệm
vụ
chính
trị
địa
phương.
Tuy
nhiên
trong
quá
trình
áp
dụng
trình
tự,
thủ
tục
này
vẫn
còn
những
khó
khăn
xảy
ra
trong
thực
tế.
"Điều
456.
Điều
kiện
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn
1.
Thủ
tục
rút
gọn
được
áp
dụng
trong
giai
đoạn
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
sơ
thẩm
khi
có
đủ
các
điều
kiện:
a)
Người
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
bị
bắt
quả
tang
hoặc
người
đó
tự
thú;
b)
Sự
việc
phạm
tội
đơn
giản,
chứng
cứ
rõ
ràng;
c)
Tội
phạm
đã
thực
hiện
là
tội
phạm
ít
nghiêm
trọng;
d)
Người
phạm
tội
có
nơi
cư
trú,
lý
lịch
rõ
ràng.
2.
…"
Theo
quy
định
nêu
trên
thì
điều
kiện
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn
phải
đảm
bảo
các
yếu
tố
"Người
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
bị
bắt
quả
tang
hoặc
người
đó
tự
thú;
Sự
việc
phạm
tội
đơn
giản,
chứng
cứ
rõ
ràng;
Tội
phạm
đã
thực
hiện
là
tội
phạm
ít
nghiêm
trọng;
Người
phạm
tội
có
nơi
cư
trú,
lý
lịch
rõ
ràng".
Nếu
thiếu
một
trong
bốn
điều
kiện
nêu
trên
thì
không
thể
đủ
điều
kiện
áp
dụng
thủ
rút
gọn.
Có
thể
thấy
việc
quy
định
các
điều
kiện
nêu
trên
là
cần
thiết
nhưng
trong
thực
tế
áp
dụng
lại
gặp
không
ít
khó
khăn
để
đảm
bảo
điều
kiện
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn.
Trên
thực
tế
người
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
bị
bắt
quả
tang
không
ít
nhưng
lại
không
đảm
bảo
các
điều
kiện
quy
định
tại
điểm
b,
c,
d
của
Điều
456
Bộ
luật
hình
sự.
Đối
với
trường
hợp
người
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
tự
thú
thì
thường
rất
ít,
do
đó
rất
khó
khăn
trong
việc
đảm
bảo
các
điều
kiện
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn.
Trường
hợp
khác,
sau
khi
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội,
người
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
đến
cơ
quan
điều
tra
đầu
thú,
thành
khẩn
khai
báo
về
hành
vi
phạm
tội
của
bản
thân,
quá
trình
xác
minh
thấy
hành
vi
phạm
tội
đơn
giản,
chứng
cứ
rõ
ràng,
tội
phạm
thực
hiện
là
tội
ít
nghiêm
trọng,
người
phạm
tội
có
nơi
cư
trú
rõ
ràng
nhưng
"Đầu
thú"
lại
không
phải
là
căn
cứ
để
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn.
Ngoài
ra
trên
thực
tế
có
rất
nhiều
tội
phạm
thuộc
trường
hợp
nghiêm
trọng
xẩy
ra
có
đủ
điều
kiện
để
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn.
Có
thể
thấy
những
điều
kiện
để
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn
nêu
trên
là
tương
đối
khắt
khe
và
cứng
nhắc,
tuy
nhiên
muốn
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn
buộc
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
phải
tuân
thủ
tuyệt
đối
các
điều
kiện
nêu
trên.
Để
nâng
cao
tỷ
lệ
các
vụ
án
hình
sự
giải
quyết
theo
thủ
tục
rút
gọn,
cá
nhân
tác
giả
xin
đưa
ra
một
số
giải
pháp
cụ
thể
như
sau:
Một
là,
do
điều
kiện
để
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn
vụ
án
hình
sự
tương
đối
khắt
khe
nên
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
gồm
Cơ
quan
điều
tra,
Viện
kiểm
sát,
Tòa
án
cần
có
quy
chế
phối
hợp
quy
định
chi
tiết
cụ
thể
về
phạm
vi,
đối
tượng,
điều
kiện
và
thủ
tục
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn.
Hai
là,
khi
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn
cần
phân
công
Điều
tra
viên,
Kiểm
sát
viên,
Thẩm
phán
có
năng
lực,
kinh
nghiệm
để
giải
quyết.
Ba
là,
đưa
chỉ
tiêu
giải
quyết
án
hình
sự
theo
thủ
tục
rút
gọn
vào
hệ
thống
chỉ
tiêu
cơ
bản
để
đánh
giá,
xếp
loại
trong
thi
đua,
khen
thưởng.
Bốn
là,
xây
dựng
chuyên
đề
và
tổ
chức
tập
huấn
cho
Cán
bộ,
Kiểm
sát
viên
nâng
cao
kỹ
năng
trong
kiểm
sát
việc
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn
đối
với
các
vụ
án
hình
sự.
Để
có
thể
mở
rộng
phạm
vi
áp
dụng
thủ
tục
tố
tụng
rút
gọn
nhằm
nâng
cao
hiệu
quả
công
tác
đấu
tranh
phòng
chống
tội
tội
phạm
và
phục
nhiệm
vụ
chính
trị
địa
phương,
giảm
tải
công
việc
của
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng,
giải
quyết
nhanh
chóng
những
loại
án
đơn
giản,
chứng
cứ
rõ
ràng
tác
giả
đưa
ra
ý
kiến
theo
hướng
bổ
sung
khoản
1
Điều
456
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
như
sau:
Bổ
sung
thêm
tình
tiết
"Đầu
thú"
vào
điểm
a,
khoản
1
Điều
456
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
2015,
theo
đó
Điều
456
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
quy
định
như
sau:
"Điều
456.
Điều
kiện
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn
1.
Thủ
tục
rút
gọn
được
áp
dụng
trong
giai
đoạn
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
sơ
thẩm
khi
có
đủ
các
điều
kiện:
a)
Người
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
bị
bắt
quả
tang
hoặc
người
đó
tự
thú
hoặc
đầu
thú;
b)
Sự
việc
phạm
tội
đơn
giản,
chứng
cứ
rõ
ràng;
c)
Tội
phạm
đã
thực
hiện
là
tội
phạm
ít
nghiêm
trọng
hoặc
nghiêm
trọng;
d)
Người
phạm
tội
có
nơi
cư
trú,
lý
lịch
rõ
ràng.
2.
…"
Trên
đây
là
một
số
khó
khăn
trong
thực
tế
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn
giải
quyết
các
vụ
án
hình
sự
và
một
số
giải
pháp
kiến
nghị
để
việc
áp
dụng
thủ
tục
rút
gọn
đạt
hiệu
quả
cao.
Phạm
Trung
Hải
–
VKSND
huyện
Yên
Sơn