Trong
quá
trình
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
việc
áp
dụng
các
biện
pháp
ngăn
chặn
theo
quy
định
tại
Điều
109
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
năm
2015
(BLTTHS)
như:
bắt
người
bị
giữ
trong
trường
hợp
khẩn
cấp,
bắt
người
phạm
tội
quả
tang,
bắt
người
đang
bị
truy
nã,
bắt
bị
can,
bị
cáo
để
tạm
giam,
bắt
người
bị
yêu
cầu
dẫn
độ,
còn
có
nhận
thức
áp
dụng
pháp
luật
khác
nhau,
chưa
thống
nhất
trong
thực
tiễn
do
đó
cũng
ảnh
hưởng
đến
chất
lượng
công
tác
kiểm
sát
việc
áp
dụng
các
biện
pháp
ngăn
chặn
theo
quy
định
của
BLTTHS.
Trong
các
giai
đoạn
tố
tụng
việc
áp
dụng,
hủy
bỏ
hoặc
thay
thế
biện
pháp
ngăn
chặn
được
thực
hiện
bởi
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
và
người
tiến
hành
tố
tụng.
Trên
cơ
sở
đó
quy
định
tại
Điều
109,
125
BLTTHS.
Tuy
nhiên
trên
thực
tế
việc
thực
hiện
các
quy
định
về
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
theo
Điều
125
BLTTHS
lại
gặp
những
khó
khăn,
vướng
mắc
dẫn
đến
có
những
quan
điểm
khác
nhau
trong
quá
trình
thực
hiện.
Điều
125.
Hủy
bỏ
hoặc
thay
thế
biện
pháp
ngăn
chặn
1.
Mọi
biện
pháp
ngăn
chặn
đang
áp
dụng
phải
được
hủy
bỏ
khi
thuộc
một
trong
các
trường
hợp:
a)
Quyết
định
không
khởi
tố
vụ
án
hình
sự;
b)
Đình
chỉ
điều
tra,
đình
chỉ
vụ
án;
c)
Đình
chỉ
điều
tra
đối
với
bị
can,
đình
chỉ
vụ
án
đối
với
bị
can;
d)
Bị
cáo
được
Tòa
án
tuyên
không
có
tội,
miễn
trách
nhiệm
hình
sự
hoặc
miễn
hình
phạt,
hình
phạt
tù
nhưng
được
hưởng
án
treo
hoặc
hình
phạt
cảnh
cáo,
phạt
tiền,
cải
tạo
không
giam
giữ.
2.
Cơ
quan
điều
tra,
Viện
kiểm
sát,
Tòa
án
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
khi
thấy
không
còn
cần
thiết
hoặc
có
thể
thay
thế
bằng
biện
pháp
ngăn
chặn
khác.
Đối
với
những
biện
pháp
ngăn
chặn
do
Viện
kiểm
sát
phê
chuẩn
trong
giai
đoạn
điều
tra
thì
việc
hủy
bỏ
hoặc
thay
thế
bằng
biện
pháp
ngăn
chặn
khác
phải
do
Viện
kiểm
sát
quyết
định;
trong
thời
hạn
10
ngày
trước
khi
hết
thời
hạn
áp
dụng
biện
pháp
ngăn
chặn,
trừ
biện
pháp
tạm
giữ
do
Viện
kiểm
sát
phê
chuẩn,
cơ
quan
đã
đề
nghị
áp
dụng
biện
pháp
ngặn
chặn
này
phải
thông
báo
cho
Viện
kiểm
sát
để
quyết
định
hủy
bỏ
hoặc
thay
thế
biện
pháp
ngăn
chặn
khác.
Hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
quy
định
tại
Khoản
1,
Điều
125
BLTTHS:
Theo
như
điều
luật
quy
định
thì
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
ra
quyết
định
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
đang
được
áp
dụng
đối
với
người
bị
buộc
tội
và
không
được
áp
dụng
biện
pháp
ngăn
chặn
khác
khi
có
một
trong
các
quy
định
sau:
Quyết
định
không
khởi
tố
vụ
án
hình
sự:
Khi
áp
dụng
biện
pháp
giữ
người
trong
trường
hợp
khẩn
cấp
hoặc
biện
pháp
tạm
hoãn
xuất
cảnh
trong
giai
đoạn
giải
quyết
tố
giác,
tin
báo
về
tội
phạm
và
kiến
nghị
khởi
tố,
tạm
giữ
quả
tang,
tự
thú,
đầu
thú
...,
các
đối
tượng
bị
áp
dụng
phải
là
người
chưa
bị
khởi
tố
nhưng
có
nghi
vấn
buộc
tội,
trong
quá
trình
chứng
minh
tội
phạm
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
phải
ra
quyết
định
hủy
biện
pháp
ngăn
chặn
này
khi
hành
vi
không
có
dấu
hiệu
tội
phạm
trước
khi
có
quyết
định
không
khởi
tố
vụ
án.
Đình
chỉ
điều
tra,
đình
chỉ
vụ
án;
đình
chỉ
điều
tra
đối
với
bị
can,
đình
chỉ
vụ
án
đối
với
bị
can:
-
Đình
chỉ
điều
tra,
đình
chỉ
vụ
án
được
hiểu
là
vụ
án
phải
được
chấm
dứt
các
hoạt
động
tố
tụng;
biện
pháp
ngăn
chặn
(biện
pháp
tạm
giam,
biện
pháp
bảo
lĩnh,
biện
pháp
đặt
tiền
để
bảo
đảm,
biện
pháp
cấm
đi
khỏi
nơi
cư
trú
và
biện
pháp
tạm
hoãn
xuất
cảnh)
đang
áp
dụng
đối
với
bị
can,
bị
cáo
thì
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
phải
ra
quyết
định
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
ngay.
-
Quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
vụ
án
đối
với
bị
can,
đình
chỉ
vụ
án
đối
với
bị
can
thì
các
biện
pháp
ngăn
chặn
đối
với
bị
can
được
đình
chỉ
phải
được
hủy
bỏ
ngay.
Còn
các
bị
can
khác
trong
vụ
án
vẫn
tiến
hành
tố
tụng
và
áp
dụng
biện
pháp
ngăn
chặn
theo
quy
định
của
BLTTHS
năm
2015.
Tại
khoản
2
Điều
20;
khoản
2
Điều
33
Thông
tư
liên
tịch
số
04/2018/TTLT
đã
quy
định
về
Gia
hạn
thời
hạn
áp
dụng,
hủy
bỏ
hoặc
thay
thế
biện
pháp
ngăn
chặn
trong
giai
đoạn
điều
tra
và
trường
hợp
Đình
chỉ
điều
tra
(so
sánh
với
khoản
2,
Điều
19
Thông
tư
liên
tịch
số
05
ngày
07/9/2005
của
VKSTC-BCA-BQP
đã
được
TTLT
số
04/2018/TTLT
thay
thế).
Như
vậy,
việc
áp
dụng
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
chưa
được
hướng
dẫn
cụ
thể
dẫn
đến
việc
áp
dụng
pháp
luật
còn
chưa
thống
nhất,
cụ
thể:
-
Quan
điểm
thứ
nhất
cho
rằng:
Khi
xem
xét
toàn
diện
khách
quan
vụ
án
thấy
thuộc
trường
hợp
phải
đình
chỉ
điều
tra
vụ
án;
đình
chỉ
điều
tra
vụ
án
đối
với
bị
can,
quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
đối
với
bị
can
thì
Cơ
quan
điều
tra
ra
Quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
vụ
án;
đình
chỉ
điều
tra
vụ
án
đối
với
bị
can,
quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
đối
với
bị
can
sau
đó
ra
văn
bản
đề
nghị
Viện
kiểm
sát
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
(tạm
giam)
theo
quy
định
của
BLTTHS
năn
2015.
-
Quan
điểm
thứ
hai
cho
rằng:
Cơ
quan
điều
tra
phải
ra
văn
bản
đề
nghị
Viện
kiểm
sát
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
(tạm
giam)
sau
đó
mới
ra
Quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
vụ
án;
đình
chỉ
điều
tra
vụ
án
đối
với
bị
can,
quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
đối
với
bị
can
để
bảo
đảm
quyền
con
người
trong
áp
dụng
biện
pháp
tạm
giam.
Để
bảo
đảm
BLTTHS
được
áp
dụng
thống
nhất
phù
hợp
với
các
chế
định
khác
trong
BLTTHS
về
áp
dụng
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
(tạm
giam),
nhận
thấy
quan
điểm
thứ
hai
phù
hợp
với
các
quy
định
của
BLTTHS,
bảo
đảm
được
quyền
con
người
được
Hiến
pháp
và
các
văn
bản
luật
quy
định.
Bị
cáo
được
Tòa
án
tuyên
không
có
tội,
miễn
trách
nhiệm
hình
sự
hoặc
miễn
hình
phạt,
hình
phạt
tù
nhưng
được
hưởng
án
treo
hoặc
hình
phạt
cảnh
cáo,
phạt
tiền,
cải
tạo
không
giam
giữ:
Thẩm
quyền
ra
quyết
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
là
thuộc
về
cơ
quan
Tòa
án
và
đối
tượng
áp
dụng
là
bị
cáo
nhưng
phải
được
tuyên
bằng
bản
án
là
không
có
tội,
tuyên
miễm
trách
nhiệm
hình
sự;
miễn
hình
phạt;
phạt
tù
nhưng
cho
hưởng
án
treo;
phạt
cảnh
cáo;
phạt
tiền;
cải
tạo
không
giam
giữ
thì
các
biện
pháp
ngăn
chặn
đang
áp
dụng
phải
được
hủy
bỏ
ngay.
Thay
thế
biện
pháp
ngăn
chặn
quy
định
tại
Khoản
2,
Điều
125
BLTTHS:
Khi
thấy
không
còn
cần
thiết:
Quy
định
này
tương
đối
rộng,
nên
có
nhiều
cách
hiểu
khác
nhau
và
phụ
thuộc
vào
ý
chí
của
người
có
thẩm
quyền
ra
quyết
định
hủy
bỏ.
Xuất
phát
từ
việc
không
quy
định
rõ
về
trường
hợp
cần
thiết
nên
dẫn
đến
có
hai
quan
điểm
khác
nhau:
-
Trường
hợp
không
cần
thiết
thì
ra
quyết
định
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
và
không
áp
dụng
không
áp
dụng
biện
pháp
ngăn
chặn
khác.
-
Trường
hợp
không
cần
thiết
thì
ra
quyết
định
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
và
áp
dụng
biện
pháp
ngăn
chặn
khác,
biện
pháp
ngăn
chặn
khác
ít
nghiêm
khắc
hơn,
ít
hạn
chế
quyền
công
dân
hơn
(biện
pháp
cấm
đi
khỏi
nơi
cư
trú).
Theo
quan
điểm
cá
nhân:
Đồng
tình
với
trường
hợp
không
cần
thiết
thì
ra
quyết
định
hủy
biện
pháp
ngăn
chặn
(tạm
giam)
và
áp
dụng
(thay
đổi)
biện
pháp
ngăn
chặn
cấm
đi
khỏi
nơi
cư
trú.
Với
lý
do
là
Cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng,
người
có
thẩm
quyền
ra
quyết
định
hủy
bỏ
biện
pháp
ngăn
chặn
đã
xác
định
và
đánh
giá
được
bị
can,
bị
cáo
không
gây
khó
khăn
cho
việc
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
hoặc
không
tiếp
tục
phạm
tội,
cũng
như
bảo
đảm
thi
hành
án.
Biện
pháp
ngăn
chặn
thay
thế
biện
pháp
tạm
giam:
Với
quy
định
của
Điều
121
biện
pháp
bảo
lĩnh;
Điều
122
biện
pháp
đặt
tiền
bảo
đảm
của
BLTTHS
và
khi
có
đủ
các
điều
kiện
quy
định
tại
Điều
21;
Điều
22
Thông
tư
liên
tịch
số
04/2018/TTLT
thì
biện
pháp
bảo
lĩnh;
biện
pháp
đặt
tiền
để
bảo
đảm
chỉ
được
áp
dụng
để
thay
thế
khi
bị
can,
bị
cáo
đang
bị
áp
dụng
biện
pháp
tạm
giam.
Nói
cách
khác
là
bị
can,
bị
cáo
đang
bị
tạm
giam
nhưng
có
đủ
điều
kiện
quy
định
tại
Điều
121,
122
BLTTHS
năm
2015
và
Thông
tư
liên
tịch
số
04/2018/TTLT
thì
có
thể
được
thay
thế
áp
dụng
biện
pháp
bảo
lĩnh
hoặc
biện
pháp
đặt
tiền
bảo
đảm.
Ngoài
02
biện
pháp
ngăn
chặn
này
ra
thì
BLTTHS
năm
2015
không
quy
định
biện
pháp
ngăn
chặn
khác
để
thay
thế
biện
pháp
tạm
giam.
Như
vậy,
Cấm
đi
khỏi
nơi
cư
trú
(Điều
123
BLTTHS)
là
biện
pháp
ngăn
chặn
được
áp
dụng
đối
với
bị
can,
bị
cáo
chưa
bị
áp
dụng
biện
pháp
tạm
giam,
hoặc
biện
pháp
tạm
giam
đã
hết
thời
hạn,
hay
biện
pháp
tạm
giam
không
còn
hiệu
lực
bởi
đã
được
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
có
thẩm
quyền
ra
quyết
định
hủy
bỏ,
hoặc
chưa
bị
áp
dụng
biện
pháp
ngăn
chặn
khác,
hoặc
đang
bị
áp
dụng
biện
pháp
ngăn
chặn
khác
nhưng
đã
hết
hạn.
Qua
nghiên
cứu
các
quy
định
của
BLTTHS
về
hủy
bỏ
hoặc
thay
thế
biện
pháp
ngăn
chặn
đối
với
bị
can,
bị
cáo
trong
giai
đoạn
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
các
vụ
án
hình
sự.
Để
giải
quyết
những
khó
khăn,
vướng
mắc
trong
thực
tiễn
nêu
trên,
cần
kịp
thời
tổng
kết,
rút
kinh
nghiệm
những
điểm
chưa
rõ
ràng,
còn
có
nhận
thức
chưa
thống
nhất
trong
việc
áp
dụng
pháp
luật
về
hủy
bỏ
hoặc
thay
thế
biện
pháp
ngăn
chặn
để
kiến
nghị
sửa
đổi,
bổ
sung
và
hướng
dẫn
các
quy
định
của
BLTTHS.
Vũ
Văn
Tuyên
-
P2,
VKSND
tỉnh