Quyền
yêu
cầu
giải
quyết
ly
hôn
được
quy
định
tại
Điều
51
của
Luật
Hôn
nhân
và
gia
đình.
Theo
đó,
vợ,
chồng
hoặc
cả
hai
người
đều
có
quyền
yêu
cầu
Tòa
án
giải
quyết
ly
hôn,
đảm
bảo
rằng
bất
kỳ
bên
nào
trong
hôn
nhân
cũng
có
thể
tiếp
cận
công
lý
và
yêu
cầu
sự
can
thiệp
của
pháp
luật
khi
cần
thiết.
Đặc
biệt,
tại
khoản
3
Điều
51
Luật
quy
định
“Chồng
không
có
quyền
yêu
cầu
ly
hôn
trong
trường
hợp
vợ
đang
có
thai,
sinh
con
hoặc
đang
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi.”.
Quy
định
này
nhằm
bảo
vệ
quyền
lợi
và
sức
khỏe
của
người
vợ
và
trẻ
nhỏ
trong
giai
đoạn
nhạy
cảm
này.
Nghị
quyết
01/2024/NQ-HĐTP
có
hiệu
lực
kể
từ
ngày
01/7/2024
đã
hướng
dẫn
chi
tiết
việc
áp
dụng
khoản
3
Điều
51
của
Luật
Hôn
nhân
và
gia
đình,
cụ
thể
hóa
và
làm
rõ
thêm
các
tình
huống
và
điều
kiện
liên
quan,
nhằm
bảo
đảm
sự
công
bằng
và
minh
bạch
trong
quá
trình
giải
quyết
ly
hôn.
Quy
định
mới
về
quyền
yêu
cầu
giải
quyết
ly
hôn
tại
Nghị
quyết
01/2024/NQ-HĐTP
-
Trường
hợp
vợ
đang
có
thai,
sinh
con
thì
chồng
không
có
quyền
yêu
cầu
ly
hôn
mà
không
phân
biệt
vợ
có
thai,
sinh
con
với
ai
Theo
quy
định
tại
Nghị
quyết
01/2024/NQ-HĐTP,
trường
hợp
vợ
đang
có
thai,
sinh
con
chồng
không
có
quyền
yêu
cầu
giải
quyết
ly
hôn,
nhằm
bảo
vệ
quyền
lợi
và
sức
khỏe
của
người
vợ
và
con
nhỏ.
Các
trường
hợp
này
bao
gồm:
+
Khi
vợ
đang
có
thai:
“Trong
thời
gian
người
vợ
mang
thai,
chồng
không
được
yêu
cầu
ly
hôn
mà
không
phân
biệt
vợ
có
thai,
sinh
con
với
ai”.
Quy
định
này
áp
dụng
từ
thời
điểm
người
vợ
mang
thai
cho
đến
khi
sinh
con
hoặc
đình
chỉ
thai
nghén.
+
Khi
vợ
sinh
con:
Đầu
tiên
là
trường
hợp
“Chồng
không
có
quyền
yêu
cầu
ly
hôn
khi
vợ
đã
sinh
con
nhưng
không
nuôi
con
trong
khoảng
thời
gian
con
dưới
12
tháng
tuổi”.
Đây
là
quy
định
nhằm
bảo
vệ
người
phụ
nữ
sau
khi
sinh
có
sức
khỏe,
tinh
thần
dễ
bị
tổn
thương.
Tuy
nhiên,
trong
tình
huống
nếu
người
phụ
nữ
vì
ngoại
tình
mà
không
nuôi
con,
đi
theo
người
đàn
ông
khác
và
để
mặc
cho
người
chồng
một
mình
nuôi
con.
Nhưng
người
chồng
trong
tình
huống
này
lại
không
có
quyền
yêu
cầu
ly
hôn,
thì
quy
định
như
vậy
có
phần
chưa
thực
sự
hợp
lý
khiến
người
chồng
phải
chịu
đựng
sự
không
công
bằng
này,
đến
khi
con
được
trên
12
tháng
tuổi
mới
có
quyền
yêu
cầu
ly
hôn.
Trường
hợp
thứ
hai,
“vợ
đã
sinh
con
nhưng
con
chết
trong
khoảng
thời
gian
dưới
12
tháng
tuổi
thì
chồng
không
được
quyền
yêu
cầu
ly
hôn
trong
khoảng
thời
gian
12
tháng
tính
từ
ngày
vợ
sinh
con”.
Đây
là
quy
định
hết
sức
nhân
văn
đề
bảo
vệ
cho
người
mẹ
cả
về
sức
khỏe
và
tinh
thần
trong
thời
gian
chịu
đựng
nỗi
đau
và
mất
mát
khi
con
mất.
Trường
hợp
thứ
ba,
“khi
vợ
phải
đình
chỉ
thai
nghén
khi
thai
từ
22
tuần
tuổi
trở
lên,
trong
khoảng
thời
gian
12
tháng
tính
từ
ngày
đình
chỉ
thai
nghén
người
chồng
không
có
quyền
yêu
cầu
ly
hôn”.
Đây
là
quy
định
vừa
giúp
bảo
vệ
tâm
lý
và
sức
khỏe
của
người
mẹ
khi
mới
phải
đình
chỉ
thai
nghén.
Đồng
thời,
quy
định
này
cũng
giúp
hạn
chế
tình
trạng
người
chồng
khi
đã
hết
tình
cảm
muốn
ly
hôn
ngay,
nên
gây
sức
ép
hoặc
tác
động
tới
người
mẹ
phải
đình
chỉ
thai
nghén
trái
ý
muốn.
-
Trường
hợp
vợ
đang
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi
thì
chồng
không
có
quyền
yêu
cầu
ly
hôn
mà
không
phân
biệt
con
đẻ,
con
nuôi
Khi
vợ
đang
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi,
trong
giai
đoạn
này,
bất
kể
con
là
con
đẻ
hay
con
nuôi,
chồng
không
được
quyền
yêu
cầu
ly
hôn
để
đảm
bảo
sự
chăm
sóc
và
ổn
định
tâm
lý
cho
trẻ.
Quy
định
này
nhằm
đảm
bảo
sự
ổn
định
và
an
toàn
cho
người
vợ
và
con
nhỏ
trong
những
giai
đoạn
nhạy
cảm
và
cần
sự
chăm
sóc
đặc
biệt,
đồng
thời
giảm
thiểu
các
xung
đột
và
áp
lực
trong
gia
đình.
Tuy
nhiên,
việc
Nghị
quyết
quy
định
“
Trong
thời
gian
người
vợ
mang
thai,
sinh
con
hoặc
đang
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi,
chồng
không
được
yêu
cầu
ly
hôn
mà
không
phân
biệt
vợ
có
thai,
sinh
con
với
ai,
con
đẻ
hay
con
nuôi”,
cũng
khiến
nhiều
người
đặt
ra
một
câu
hỏi,
liệu
quy
định
như
vậy
có
thực
sự
công
bằng
đối
với
nam
giới
và
tuân
thủ
nguyên
tắc
về
bình
đẳng
giới
hay
chưa.
Ví
dụ:
Chị
Hà
Ngọc
A
và
anh
Nguyễn
Đức
H
đăng
ký
kết
hôn
từ
năm
2016,
quá
trình
chung
sống
đã
có
02
con
chung
là
cháu
L
và
cháu
B.
Đến
tháng
8
năm
2024
thì
chị
A
biết
mình
mang
thai
con
thứ
3,
sau
khi
đi
khám
thì
được
chẩn
đoán
là
thai
04
tháng.
Do
nghì
ngờ
không
phải
con
mình,
vì
thời
gian
chị
A
mang
thai,
anh
H
vắng
nhà
nhiều
ngày
nên
anh
H
đi
xét
nghiệm
ADN
của
cháu
L
và
cháu
B
thì
kết
quả
cả
hai
cháu
đều
có
kết
quả
là
không
cùng
huyết
thống
với
anh
H.
Chị
A
cũng
xác
nhận
trong
suốt
quá
trình
hôn
nhân
chị
đã
ngoại
tình
với
anh
Nguyễn
Việt
T
và
cháu
L,
cháu
B
và
cả
thai
nhi
chị
đang
mang
đều
là
con
của
người
khác
dẫn
đến
gia
đình
anh
H
chị
A
xảy
ra
mâu
thuẫn
không
thể
hàn
gắn.
Nhưng
trong
trường
hợp
này
theo
quy
định
anh
H
sẽ
không
được
yêu
cầu
ly
hôn
với
chị
A
đến
khi
chị
sinh
con
và
con
đã
từ
12
tháng
tuổi
trở
lên.
Nếu
chị
A
không
ly
hôn
với
anh
H
thì
đây
sẽ
là
một
khoảng
thời
gian
dài
và
gây
ảnh
hưởng
nhiều
tới
tinh
thần
và
cuộc
sống
của
anh
H.
Trong
tình
huống
trên
việc
anh
H
không
được
quyền
yêu
cầu
ly
hôn
với
chị
A
không
những
ảnh
hưởng
đến
tinh
thần
và
cuộc
sống
của
anh
H,
mà
còn
ảnh
hưởng
đến
quyền
“đơn
phương
ly
hôn”
của
anh
H.
Vì
chị
A
đã
ngoại
tình
trong
thời
gian
dài
và
cả
02
người
con
trước
đều
không
có
quan
hệ
huyết
thống
với
anh
H,
đây
chính
là
căn
cứ
vi
phạm
nghiêm
trọng
quyền,
nghĩa
vụ
của
vợ,
chồng
làm
cho
hôn
nhân
lâm
vào
tình
trạng
mâu
thuẫn
trầm
trọng,
đời
sống
chung
không
thể
kéo
dài,
mục
đích
của
hôn
nhân
không
đạt
được.
Có
đủ
căn
cứ
để
thực
hiện
quyền
đơn
phương
ly
hôn,
việc
Nghị
quyết
01/2024/NQ-HĐTP
quy
định
như
trên
dẫn
đến
xung
đột
pháp
luật
về
quyền
“đơn
phương
ly
hôn”,
đồng
thời
nam
giới
cũng
phải
chịu
thiệt
thòi
nhiều
hơn,
chưa
được
hưởng
hoàn
toàn
quyền
bình
đẳng
giới
mà
pháp
luật
quy
định.
-
Quyền
yêu
cầu
giải
quyết
ly
hôn
trong
trường
hợp
mang
thai
hộ
vì
mục
đích
nhân
đạo
Theo
quy
định
tại
Nghị
quyết
01/2024/NQ-HĐTP,
việc
mang
thai
hộ
vì
mục
đích
nhân
đạo
cũng
bao
gồm
những
điều
khoản
chi
tiết
liên
quan
đến
quyền
yêu
cầu
giải
quyết
ly
hôn
của
chồng.
Cụ
thể,
“Chồng
của
người
mang
thai
hộ
không
có
quyền
yêu
cầu
Tòa
án
giải
quyết
ly
hôn
khi
vợ
đang
có
thai,
sinh
con
hoặc
đang
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi”.
Điều
này
giúp
quy
định
chặt
chẽ
hơn
trong
những
trường
hợp
trên
thực
tế
người
nhờ
mang
thai
hộ
không
nuôi
con
hoặc
chưa
đủ
điều
kiện
nuôi
con.
Quy
định
này
sẽ
giúp
bảo
vệ
quyền
lợi
và
sức
khỏe
của
người
vợ
cũng
như
đứa
trẻ
trong
giai
đoạn
sau
sinh
nhiều
khó
khăn.
Ngoài
ra,
“Chồng
của
người
nhờ
mang
thai
hộ
cũng
không
có
quyền
yêu
cầu
ly
hôn
khi
vợ
đang
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi
hoặc
khi
người
mang
thai
hộ
đang
có
thai,
sinh
con,
hoặc
đang
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi”.
Quy
định
này
đảm
bảo
sự
ổn
định
và
an
toàn
cho
cả
hai
bên
liên
quan
trong
quá
trình
mang
thai
hộ,
đồng
thời
thể
hiện
sự
quan
tâm
và
bảo
vệ
trẻ
em,
giúp
đảm
bảo
trẻ
nhận
được
sự
quan
tâm,
chăm
sóc
và
được
bảo
vệ
quyền
lợi
trong
các
tình
huống
phức
tạp
và
nhạy
cảm
liên
quan
đến
mang
thai
hộ
vì
mục
đích
nhân
đạo.
Tuy
nhiên,
trong
trường
hợp
này
Nghị
quyết
01/2024/NQ-HĐTP
vẫn
còn
tồn
tại
vướng
mắc,
nếu
hai
vợ
chồng
nhờ
mang
thai
hộ
và
đang
nuôi
con
nhưng
do
người
vợ
ngoại
tình
nên
không
chăm
sóc
con
nữa
và
không
còn
tình
cảm
với
chồng
khiến
đời
sống
hôn
nhân
ngày
càng
trầm
trọng.
Nhưng
theo
quy
định
tại
điểm
b,
khoản
6,
Điều
2
của
Nghị
quyết
01/2024/NQ-HĐTP
thì
người
chồng
vẫn
không
có
quyền
yêu
cầu
Tòa
Án
giải
quyết
ly
hôn.
Xét
theo
phương
diện
chăm
sóc
cho
trẻ
em
thì
cháu
bé
trong
trường
hợp
này
đã
không
còn
nhận
được
sự
chăm
sóc
của
mẹ
và
chỉ
có
bố
là
người
chăm
sóc
cháu
bé.
Ngoài
ra,
vì
là
nhờ
mang
thai
hộ,
nên
người
mẹ
không
trực
tiếp
mang
thai,
sinh
con,
không
phải
chịu
đựng
sự
vất
vả
về
thể
chất
và
tinh
thần
của
người
phụ
nữ
khi
sinh
đẻ.
Vì
vậy,
theo
quan
điểm
của
tác
giả
việc
quy
định
chồng
của
người
nhờ
mang
thai
hộ
không
có
quyền
yêu
cầu
ly
hôn
là
cứng
nhắc
và
chưa
bình
đẳng
đối
với
nam
giới.
Cần
sửa
đổi
điểm
b,
khoản
6,
Điều
2
của
Nghị
quyết
01/2024/NQ-HĐTP
thành:
“Chồng
của
người
nhờ
mang
thai
hộ
không
có
quyền
yêu
cầu
Tòa
án
giải
quyết
ly
hôn
khi
vợ
đang
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi
hoặc
khi
người
mang
thai
hộ
đang
có
thai,
sinh
con
hoặc
đang
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi
(trừ
trường
hợp
vợ
của
người
nhờ
mang
thai
hộ
vi
phạm
nghiêm
trọng
quyền,
nghĩa
vụ
của
vợ,
chồng
làm
cho
hôn
nhân
lâm
vào
tình
trạng
trầm
trọng,
đời
sống
chung
không
thể
kéo
dài,
mục
đích
của
hôn
nhân
không
đạt
được.”.
Quy
định
như
vậy
sẽ
giúp
đảm
bảo
quyền
và
sự
bình
đẳng
giới
hơn
đối
với
người
chồng
trong
trường
hợp
này.
Nghị
quyết
01/2024/NQ-HĐTP
của
Hội
đồng
Thẩm
phán
TANDTC
đưa
ra
những
quy
định
mới
nhất
về
quyền
yêu
cầu
giải
quyết
ly
hôn,
đặc
biệt
nhấn
mạnh
các
trường
hợp
chồng
không
được
yêu
cầu
ly
hôn
khi
vợ
đang
mang
thai,
sinh
con,
hoặc
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi.
Quy
định
này
nhằm
bảo
vệ
quyền
lợi
và
sức
khỏe
của
người
vợ
và
trẻ
nhỏ,
đồng
thời
đảm
bảo
sự
công
bằng
và
minh
bạch
hơn
các
trường
hợp
còn
gặp
vướng
mắc
trong
xét
xử.
Tuy
nhiên
vẫn
còn
tồn
tại
những
bất
cập
như
đối
với
Trường
hợp
vợ
đang
nuôi
con
dưới
12
tháng
tuổi
mà
xác
định
không
phải
con
của
chồng;
và
trường
hợp
mang
thai
hộ
vì
mục
đích
nhân
đạo
như
đã
nêu
trên.
Đề
nghị
HĐTP
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
sửa
đổi
cho
phù
hợp,
đảm
bảo
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
người
chồng
khi
bị
phản
bội
trong
hôn
nhân.
Bàng
Đức
Hải
-
VKSND
huyện
Sơn
Dương