Quá
trình
giải
quyết
các
nguồn
tin
về
tội
phạm
Sử
dụng
con
dấu
hoặc
tài
liệu
giả
của
cơ
quan
tổ
chức”
theo
Điều
341
Bộ
luật
hình
sự
năm
2015,
sửa
đổ
bổ
sung
năm
2017
(
BLHS),
hiện
nay
có
nhiều
quan
điểm
chưa
thống
nhất
về
đường
lối
xử
lý
cụ
thể:
Nội
dung
vụ
việc:
Tháng
10/2022,
Nguyễn
Văn
A
do
không
có
giấy
phép
lái
xe
ô
tô
hạng
FC,
không
đi
làm
được
nên
đến
đầu
tháng
5/2023
trong
lúc
sử
dụng
mạng
xã
hội
Facebook
thì
A
thấy
có
trang
facebook
mang
tên
“
Trung
tâm
đào
tạo
cấp
giấy
phép
lái
xe”
nên
đã
nhắn
tin
hỏi
để
làm
01
(một)
Giấy
phép
lái
xe
hạng
FC
giả
để
sử
dụng.
Khoảng
15
ngày
sau,
Nguyễn
Văn
A
nhận
được
01
giấy
phép
lái
xe
ô
tô
hạng
FC
giả
mang
tên
Nguyễn
Văn
A
đề
số:
17523335671
do
Sở
Giao
thông
vận
tải
tỉnh
H
cấp
ngày
15/5/2023
từ
người
giao
hàng,
đồng
thời
A
thanh
toán
chi
phí
làm
Giấy
phép
lái
xe
ô
tô
giả
cho
người
giao
hàng
số
tiền
là
7.000.000đ
(bảy
triệu
đồng).
Sau
khi
có
giấy
phép
lái
xe
ô
tô
Hạng
FC
giả,
ngày
20/6/2023
Nguyễn
Văn
A
điều
khiển
xe
ô
tô
đầu
kéo
chở
hàng
từ
tỉnh
H
về
tỉnh
Q
để
giao
hàng
khi
đến
Km
172+400
QL2
thì
bị
lực
lượng
Cảnh
sát
giao
thông
(CSGT)
Công
an
tỉnh
Q
kiểm
tra
do
xe
chở
hàng
vượt
quá
quá
trọng
tải
quy
định,
kiểm
tra
giấy
phép
lái
xe
thì
A
xuất
trình
giấy
phép
lái
xe
ô
tô
giả
Hạng
FC
do
A
đã
đặt
làm
trước
đó
cho
lực
lượng
CSGT,
lực
lượng
CSGT
đã
lập
biên
bản
vi
phạm
hành
chính
đối
với
A
và
thu
giữ
giấy
phép
lái
xe
ô
tô
giả
nêu
trên.
Ngày
25/6/2023
Phòng
Kỹ
thuật
hình
sự
Công
an
tỉnh
Q
ban
hành
Kết
luận
giám
định
số
195/KL-KTHS,
kết
luận:
Giấy
phép
lái
xe
số:
17523335671
do
Sở
Giao
thông
vân
tải
tỉnh
H
cấp
ngày
15/5/2023
mang
tên
Nguyễn
Văn
A
gửi
giám
định
là
giả;
Sau
khi
thụ
lý,
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm
có
02
quan
điểm
cho
rằng:
Quan
điểm
1
cho
rằng:
Hành
vi
sử
dụng
giấy
tờ,
tài
liệu
giả
của
cơ
quan
tổ
chức
của
Nguyễn
Văn
A
là
để
đối
phó
với
lực
lượng
Cảnh
sát
giao
thông
khi
kiểm
tra
hành
chính,
không
nhằm
mục
đích
thực
hiện
tội
phạm
nên
hành
vi
này
chỉ
là
vi
phạm
hành
chính,
không
cấu
thành
tội
phạm,
theo
quy
định
tại
khoản
1
Điều
341
BLHS
năm
2015.
Do
đó,
cần
ra
quyết
định
không
khởi
tố
vụ
án
hình
sự
theo
khoản
2
Điều
157
Bộ
luật
tố
tụng
Hình
sự,
nhưng
phải
được
xử
lý
hành
chính
theo
Nghị
định
144/2021/NĐ-CP
ngày
31/12/2021
của
Chính
Phủ
quy
định
về
xử
phạt
hành
chính
trong
lĩnh
vực
an
ninh,
trật
tự…;
Quan
điểm
2
cho
rằng:
Hành
vi
sử
dụng
giấy
tờ,
tài
liệu
giả
của
cơ
quan
tổ
chức
của
Nguyễn
Văn
A
điều
khiển
phương
tiện
ô
tô
khi
không
đủ
điều
kiện
để
lừa
dối
cơ
quan,
tổ
chức
là
hành
vi
trái
pháp
luật.
Do
đó,
hành
vi
của
A
đủ
yếu
tố
cấu
thành
tội:
Sử
dụng
con
dấu
hoặc
tài
liệu
giả
của
cơ
quan
tổ
chức,
quy
định
tại
khoản
1
Điều
341
BLHS
năm
2015.
Sau
khi
nghiên
cứu
các
quy
định
của
pháp
luật
và
các
tài
liệu
giải
đáp
áp
dụng
pháp
luật
có
liên
quan,
tác
giả
không
đồng
tình
với
quan
điểm
một
nêu
trên,
Bởi
lẽ:
theo
quy
định
tại
Điều
341
BLHS:
Tội
sử
dụng
con
dấu
hoặc
tài
liệu
của
cơ
quan
tổ
chức.
“
Người
nào
làm
giả
con
dấu,
tài
liệu
hoặc
giấy
tờ
khác
của
cơ
quan,
tổ
chức
hoặc
sử
dụng
con
dấu,
tài
liệu
hoặc
giấy
tờ
giả
thực
hiện
hành
vi
trái
pháp
luật
thì
bị
phạt
tiền….,
hoặc
bị
phạt
tù
từ
06
tháng
đến
02
năm”.
-
Hành
vi
sử
dụng
con
dấu
hoặc
tài
liệu
giả
của
cơ
quan
tổ
chức
được
hiểu
là
việc
dùng
con
dấu,
tài
liệu,
giấy
tờ
giả
không
phải
do
mình
làm
ra
để
thực
hiện
hành
vi
trái
pháp
luật.
-
Yếu
tố
“thực
hiện
hành
vi
trái
pháp
luật”
quy
định
tại
khoản
1
Điều
341
BLHS
năm
2015,
sửa
đổi
bổ
sung
năm
2017
được
hiểu
chỉ
gắn
với
hành
vi
“sử
dụng
con
dấu,
tài
liệu
hoặc
giấy
tờ
giả”,
không
gắn
với
hành
vi
“làm
giả
con
dấu,
tài
liệu
hoặc
giấy
tờ
khác
của
cơ
quan,
tổ
chức”.
Do
đó,
“hành
vi
trái
pháp
luật”,
quy
định
tại
khoản
1
Điều
341
BLHS
được
hiểu
là
hành
vi
trái
pháp
luật
nói
chung
(kể
cả
pháp
luật
hình
sự,
pháp
luật
dân
sự,
pháp
luật
hành
chính…).
-
Theo
quy
định
tại
tại
khoản
18
Điều
3
của
Luật
giao
thông
đường
bộ
năm
2008
và
Điều
12
Nghị
quyết
số
02/2022/NQ-HĐTP
ngày
06/9/2022
của
Hội
đồng
thẩm
phán
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
và
các
văn
bản
pháp
luật
có
liên
quan
xác
định:
“Phương
tiện
giao
thông
cơ
giới
đường
bộ
gồm
xe
ô
tô;
máy
kéo;
rơ
moóc
hoặc
sơ
mi
rơ
moóc
được
kéo
bởi
xe
ô
tô,
máy
kéo;
xe
mô
tô
hai
bánh;
xe
mô
tô
ba
bánh;
xe
gắn
máy
(kể
cả
xe
gắn
máy
điện)
và
các
loại
xe
tương
tự
là
nguồn
nguy
hiểm
cao
độ”.
Như
vậy,
theo
quy
định
tại
khoản
9
Điều
8
của
Luật
giao
thông
đường
bộ:
Các
hành
vi
bị
nghiêm
cấm
“Điều
khiển
xe
cơ
giới
không
có
giấy
pháp
lái
xe
theo
quy
định”.
Do
đó,
hành
vi
của
Nguyễn
Văn
A
khi
không
đủ
điều
kiện
(không
có
giấy
phép
lái
xe
theo
quy
định)
sử
dụng
giấy
phép
lái
xe
ô
tô
giả
điều
khiển
xe
cơ
giới
(là
nguồn
nguy
hiểm
cao
độ)
là
thực
hiện
hành
vi
trái
pháp
luật
đủ
yếu
tố
cấu
thành
tội:
Sử
dụng
con
dấu
hoặc
tài
liệu
của
cơ
quan
tổ
chức
theo
quy
định
tại
khoản
1
Điều
341
BLHS.
Nếu
Nguyễn
Văn
A
sử
dụng
giấy
tờ
giả
thực
hiện
hành
vi
trái
pháp
luật
hình
sự,
đủ
yếu
tố
cấu
thành
tội
phạm
thì
tùy
từng
trường
hợp
bị
xử
lý
theo
tình
tiết
định
khung
tăng
nặng
quy
định
tại
điểm
d,
khoản
2
Điều
341
BLHS
(sử
dụng
con
dấu,
tài
liệu
hoặc
giấy
tờ
giả
hoặc
giấy
tờ
khác
thực
hiện
tội
phạm
ít
nghiêm
trọng
hoặc
tội
phạm
tội
nghiêm
trọng)
hoặc
điểm
b
khoản
3
Điều
341
BLHS
(sử
dụng
con
dấu,
tài
liệu
hoặc
giấy
tờ
giả
hoặc
giấy
tờ
khác
thực
hiện
tội
phạm
rất
nghiêm
trọng
hoặc
tội
phạm
tội
đặc
biệt
nghiêm
trọng).
Trường
hợp
Nguyễn
Văn
A
có
đủ
điều
kiện
điều
khiển
xe
cơ
giới
theo
quy
định,
nhưng
làm
mất
giấy
phép
lái
xe
ô
tô
khi
chưa
được
cơ
quan
có
thẩm
quyền
cấp
lại,
mà
sử
dụng
giấy
phép
lái
xe
ô
tô
giả
điều
khiển
phương
tiện
để
lừa
dối
cơ
quan
chức
năng
khi
bị
kiểm
tra,
hành
vi
của
Nguyễn
Văn
A
tuy
có
dấu
hiệu
của
tội
phạm
nhưng
tính
chất
nguy
hiểm
cho
xã
hội
không
đáng
kể
thì
tùy
từng
trường
hợp
có
thể
áp
dụng
khoản
2
Điều
8
BLHS
năm
2015
để
xử
lý
bằng
biện
pháp
khác.
Trên
đây
là
ý
kiến
của
tác
giả
về
đường
lối
xử
lý
về
nguồn
tin
về
tội
phạm
nêu
trên,
rất
mong
nhận
được
sự
quan
tâm
tham
gia
ý
kiến
của
các
bạn
đọc.
Cấn
Văn
Tuấn
-
VKSND
huyện
Hàm
Yên