Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu - Trao đổi nghiệp vụ » Nghiên cứu - Trao đổi

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG - Đã xem: 5750

   Bàn về những vướng mắc liên quan đến việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015.


Thứ tư - 13/07/2016 14:25

           Quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là một chế định mới được ghi nhận trong Luật hình sự năm 2015. Từ việc ghi nhận chế định này, các quy định cơ bản của Bộ luật hình sự cũng có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp như Khái niệm tội phạm (Điều 8), Nguyên tắc xử lý (Điều 3), Hiệu lực của Bộ luật hình sự (Chương II) v.v… tuy nhiên vẫn còn có những khó khăn, vướng mắc cần được hướng dẫn để việc áp dụng Bộ luật hình sự được chính xác, tôi xin đưa ra để bạn đọc cùng tham khảo.

          Tại Điều 9 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về phân loại tội phạm về cơ bản vẫn được giữ nguyên theo Điều 8 của Bộ luật hình sự năm 1999, cụ thể: “Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây:

          1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

          2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;

          3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;

          4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.

          Quy định nêu trên khi áp dụng để phân loại các tội phạm cụ thể đối với pháp nhân thương mại phạm tội, có thể dẫn đến hai cách hiểu khác nhau:

          - Cách hiểu thứ nhất: Do không có một điều luật nào quy định việc phân loại tội phạm áp dụng riêng đối với pháp nhân thương mại, do vậy Điều 9 nêu trên sẽ được áp dụng chung cho tất cả các trường hợp bất kể chủ thể của tội phạm là cá nhân hay pháp nhân. Hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội chủ yếu là phạt tiền, và cũng chỉ có hình phạt tiền được quy định là một trong những căn cứ để phân loại tội phạm đối với loại chủ thể này, cho nên, tội phạm mà các pháp nhân thương mại thực hiện sẽ luôn thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng - theo quy định tại khoản 1 Điều 9 nêu trên.

          Nếu hiểu theo cách thứ nhất trên đây sẽ thấy sự bất hợp lý trong quy định về phân loại tội phạm, khi rõ ràng tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như hậu quả đối với xã hội của hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện quy định tại từng điểm là khác nhau, có trường hợp gây thiệt hại chỉ về tài sản, có trường hợp gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của nhiều người, có trường hợp gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội... nhưng lại bị xếp vào cùng một loại tội phạm, bất kể số tiền là cao hay thấp hay có sự phân thành các mức khác nhau tương ứng với từng điều, khoản.

          Theo tôi, cách hiểu như vậy là không đúng với bản chất của hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện. Bởi không thể căn cứ vào hình phạt tiền được áp dụng để xác định tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện trong các trường hợp này là tội phạm ít nghiêm trọng. Do đặc điểm của pháp nhân là một chủ thể pháp luật có sự độc lập trong tài chính, được thành lập ra để hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận nên việc áp dụng hình phạt tiền đối với pháp nhân là nhằm đảm bảo tính răn đe, có hiệu quả cũng như phù hợp với bản chất của nó. Nếu như hình phạt tù được phân ra các khung hình phạt khác nhau tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi do cá nhân thực hiện, thì hình phạt tiền áp dụng đối với pháp nhân thương mại được phân ra thành các mức khác nhau cũng có ý nghĩa như vậy.

          - Cách hiểu thứ hai: Dựa vào cách xây dựng trong mỗi điều luật có quy định về trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân, có thể căn cứ theo khung hình phạt áp dụng đối với cá nhân để phân loại tội phạm tương ứng đối với pháp nhân, các tình tiết định khung cũng tương ứng được áp dụng chung cho cả hai loại chủ thể. Bởi về cơ bản[1], các điều luật quy định về tội phạm mà pháp nhân thương mại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thiết kế tương tự nhau, đó là sau khi nêu các khung hình phạt được áp dụng đối với cá nhân phạm tội sẽ có một khoản nêu các mức hình phạt được áp dụng với pháp nhân có hành vi phạm tội tương ứng với các khoản đã quy định trước đó về hành vi phạm tội của cá nhân: điểm a (của khoản quy định về hành vi phạm tội của pháp nhân) tương ứng với hành vi phạm tội (của cá nhân) quy định tại khoản 1, điểm b tương ứng với khoản 2, điểm c, d tương ứng với khoản 3, 4 (nếu có)...

          Ví dụ tại khoản 1 Điều 193 quy định: “Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm”, đối chiếu với quy định tại Điều 9 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 193 nêu trên thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này sẽ được xác định là tội phạm nghiêm trọng; phạm tội có tình tiết Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng, nếu là cá nhân thì bị phạt tù theo khung hình phạt của khoản 3 điều này là từ 10 năm đến 15 năm, tức là loại tội phạm rất nghiêm trọng, thì pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 điều này cũng được xác định là loại tội phạm rất nghiêm trọng.

          Theo tôi, cách hiểu này có phần linh hoạt và hợp lý hơn cách hiểu thứ nhất bởi nó có thể áp dụng để đánh giá và xác định được đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện tương ứng với các mức hình phạt quy định tại các điểm a, b, c... trong mỗi khoản - điều. Nhưng hiểu như vậy có phần suy đoán, cũng như không có căn cứ chắc chắn, cụ thể nào để làm cơ sở cho cách hiểu này. Thêm vào đó, cả hai cách giải thích nêu trên đều chưa giải quyết được vướng mắc sau đây.

          Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật hình sự năm 2015, các hình phạt chính áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội không chỉ có phạt tiền mà còn bao gồm cả hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; và theo nguyên tắc quy định tại khoản 3 của Điều này, đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính. Như vậy, trong những trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội bị áp dụng hình phạt đình chỉ (có thời hạn hoặc vĩnh viễn) thì tội phạm trong trường hợp này được phân loại là tội phạm gì?

          Điều 79 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn áp dụng đối pháp pháp nhân thương mại trong hai trường hợp: Pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra hoặc Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm. Như vậy, nếu pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79, tương ứng với mỗi tội danh trong phạm vi điều 76 quy định, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Nếu đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì trường hợp này có thể xác định là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nhưng căn cứ vào đâu để phân loại tội phạm trong trường hợp đó?

          Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ dẫn đến sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để giải quyết các vụ án có chủ thể là pháp nhân thương mại phạm tội, không chỉ trong việc phân loại tội phạm mà còn liên quan đến các vấn đề như xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, căn cứ miễn trách nhiệm hình sự (Điều 27, Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015), thời hạn điều tra, truy tố, xét xử (Điều 172, 173, 240, 241, 277, 278 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015), thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân...

          Trên đây là quan điểm của tôi về một số vướng mắc liên quan đến việc phân loại tội phạm áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, rất mong nhận được ý kiến trao đổi từ phía bạn đọc.

 
Phạm Thị Hoàng Anh
                                                                                              

[1] Nói là về cơ bản bởi vẫn có điều luật không tuân theo cách thiết kế như phân tích nêu trên, như Điều 213 quy định về Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm.

Tổng số điểm của bài viết là: 18 trong 4 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Scroll to top