Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
năm
2015
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2021)
quy
định
trình
tự,
thủ
tục
tiếp
nhận,
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm,
khởi
tố,
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
và
một
số
thủ
tục
thi
hành
án
hình
sự;
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
và
mối
quan
hệ
giữa
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
tiến
hành
tố
tụng;
nhiệm
vụ,
quyền
hạn
và
trách
nhiệm
của
người
có
thẩm
quyền
tiến
hành
tố
tụng;
quyền
và
nghĩa
vụ
của
người
tham
gia
tố
tụng,
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân;
hợp
tác
quốc
tế
trong
tố
tụng
hình
sự.
Với
chức
năng,
nhiệm
vụ
thực
hành
quyền
công
tố
và
kiểm
sát
hoạt
động
tư
pháp
của
đơn
vị
Viện
KSND
cấp
huyện.
Bản
thân
nhận
thấy
còn
có
một
số
khó
khăn,
vướng
mắc
trong
việc
thực
hiện
một
số
quy
định
của
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
năm
2015
như
xử
lý
vật
chứng
là
số
tài
khoản
ngân
hàng,
số
điện
thoại,
giao
nhận
tài
liệu
liên
quan
đến
hoạt
động
xác
minh
nguồn
tin
về
tội
phạm,
thực
hiện
quy
định
về
thời
hạn
sau
khi
ban
hành
Kết
luận
điều
tra
đề
nghị
truy
tố
hoặc
Cáo
trạng…
cần
nghiên
cứu,
đề
xuất
sửa
đổi,
bổ
sung
và
hướng
dẫn
để
bảo
đảm
cho
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng,
người
tiến
hành
tố
tụng
áp
dụng
pháp
luật
thống
nhất,
khách
quan.
Cụ
thể:
1.
Khó
khăn
trong
việc
xử
lý
vật
chứng
theo
Điều
106
-
Điểm
a
khoản
2
Điều
106
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
quy
định:
“Vật
chứng
là
công
cụ,
phương
tiện
phạm
tội,
vật
cấm
tàng
trữ,
lưu
hành
thì
bị
tịch
thu,
nộp
ngân
sách
nhà
nước
hoặc
tiêu
hủy”.
Thực
tế,
Cơ
quan
điều
tra
đã
thu
giữ,
tạm
giữ
các
vật
chứng
là
công
cụ,
phương
tiện
phạm
tội
là
“vật”
cụ
thể
nhưng
chứa
đựng
các
thông
tin,
dữ
liệu
điện
tử
như:
Thẻ
tín
dụng,
thẻ
ghi
nợ
của
ngân
hàng
có
chứa
đựng
số
tài
khoản;
Thẻ
sim
điện
thoại
có
chứa
đựng
số
điện
thoại;
tên
đăng
nhập,
tên
hiện
thị
trên
các
ứng
dụng
mạng
xã
hội
Zalo,
Facebook,
Tiktok,
Instagram;
Giấy
phép
lái
xe,
Giấy
đăng
ký
xe,
Giấy
phép
kinh
doanh…
Thực
hiện
các
hành
vi
tội
phạm
trên
không
gian
mạng
(Đánh
bạc,
lừa
đảo
chiếm
đoạt
tài
sản…).
Dù
các
vật
chứng
này
có
bị
tạm
giữ,
thu
giữ
thì
người
vi
phạm,
người
phạm
tội
vẫn
có
thể
đăng
nhập,
đăng
xuất,
cập
nhật,
thay
đổi
thông
tin,
nội
dung
thông
qua
không
gian
mạng
hoặc
làm
thủ
tục
cấp
mới,
cấp
lại
nhanh
chóng,
thuận
tiện.
Hiện
nay,
việc
xử
lý
các
công
cụ,
phương
tiện
này
bằng
hình
thức
tuyên
tịch
thu,
tiêu
huỷ
chưa
thực
sự
triệt
để
và
chưa
có
hướng
dẫn
cụ
thể
nên
khó
khăn
trong
việc
xử
lý
vật
chứng.
Vì:
-
Trường
hợp
tuyên
tịch
thu,
tiêu
huỷ
theo
quy
định
tại
điểm
a
khoản
2
Điều
106
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
thì
người
chủ
sở
hữu,
người
bị
tạm
giữ
vật
chứng
đó
vẫn
có
thể
đăng
nhập,
đăng
xuất,
cập
nhật,
thay
đổi
thông
tin,
đăng
ký
cấp
mới,
cấp
lại.
-
Trường
hợp
nếu
không
xử
lý
theo
quy
định
thì
không
đảm
bảo
việc
xử
lý
vật
chứng
theo
quy
định
của
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự.
Đề
xuất,
kiến
nghị:
Cần
quy
định,
bổ
sung
cụ
thể
tại
khoản
2
Điều
106
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự:
“Đối
với
các
vật
chứng
là
công
cụ,
phương
tiện
phạm
tội
có
chứa
đựng
các
thông
tin,
dữ
liệu
điện
tử
thì
cơ
quan
có
thẩm
quyền
cung
cấp,
cấp
phép
thực
hiện
việc
thu
hồi,
hạn
chế
hoặc
cấm
giao
dịch,
cấm
sử
dụng
theo
yêu
cầu
của
Toà
án
hoặc
cơ
quan
chức
năng
có
thẩm
quyền
theo
quy
định
của
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự”.
2.
Việc
giao
nhận
tài
liệu
liên
quan
đến
hoạt
động
xác
minh
nguồn
tin
về
tội
phạm
giữa
Cơ
quan
điều
tra
và
Viện
kiểm
sát
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
đã
có
một
số
điều
luật
quy
định
về
các
vấn
đề
liên
quan
đến
việc
thụ
lý
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm
(Từ
Điều
143
đến
Điều
160).
Trong
giai
đoạn
thụ
lý
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm,
Cơ
quan
điều
tra
được
tiến
hành
các
hoạt
động:
Thu
thập
thông
tin,
tài
liệu,
đồ
vật
từ
cơ
quan,
tổ
chức,
cá
nhân
có
liên
quan
để
kiểm
tra,
xác
minh
nguồn
tin;
Khám
nghiệm
hiện
trường;
Khám
nghiệm
tử
thi;
Trưng
cầu
giám
định,
yêu
cầu
định
giá
tài
sản.
Tuy
nhiên
không
quy
định
thời
hạn
cụ
thể
để
Cơ
quan
điều
tra,
Cơ
quan
được
giao
nhiệm
vụ
tiến
hành
một
số
hoạt
động
điều
tra
có
trách
nhiệm
chuyển
biên
bản,
tài
liệu
cho
Viện
kiểm
sát
trong
trường
hợp
Kiểm
sát
viên
không
trực
tiếp
kiểm
sát
các
hoạt
động
này.
Dẫn
đến
khó
khăn
cho
Viện
kiểm
sát,
Kiểm
sát
viên
thực
hiện
chức
năng
thực
hành
quyền
công
tố
và
kiểm
sát
hoạt
động
tư
pháp
trong
giai
đoạn
này.
Đề
xuất,
kiến
nghị:
Sửa
đổi,
bổ
sung
khoản
5
Điều
88
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
như
sau:
“Trong
thời
hạn
05
ngày
kể
từ
ngày
lập
biên
bản
về
hoạt
động
điều
tra,
thu
thập,
nhận
được
tài
liệu
liên
quan
đến
vụ
án,
nguồn
tin
về
tội
phạm
mà
Kiểm
sát
viên
không
trực
tiếp
kiểm
sát
theo
quy
định
của
Bộ
luật
này
thì
Cơ
quan
đều
tra,
cơ
quan
được
giao
nhiệm
vụ
tiến
hành
một
số
hoạt
động
điều
tra
có
trách
nhiệm
chuyển
biên
bản,
tài
liệu
này
cho
Viện
kiểm
sát
để
kiểm
sát
việc
lập
hồ
sơ
vụ
án,
hồ
sơ
nguồn
tin
về
tội
phạm.
Trường
hợp
do
trở
ngại
khách
quan
thì
thời
hạn
này
có
thể
kéo
dài
nhưng
không
quá
15
ngày.
Trong
thời
hạn
03
ngày,
Viện
kiểm
sát
đóng
dấu
bút
lục
và
sao
lưu
biên
bản,
tài
liệu
lưu
hồ
sơ
kiểm
sát
và
bàn
giao
nguyên
trạng
tài
liệu,
biên
bản
đó
cho
Cơ
quan
đều
tra,
cơ
quan
được
giao
nhiệm
vụ
tiến
hành
một
số
hoạt
động
điều
tra.
Việc
giao,
nhận
tài
liệu,
biên
bản
được
lập
biên
bản
theo
quy
định
tại
Điều
133
của
Bộ
luật
này.
3.
Thực
hiện
quy
định
về
việc
chuyển
hồ
sơ
sau
khi
Kết
thúc
điều
tra
đề
nghị
truy
tố
và
ban
hành
Cáo
trạng
Khoản
4
Điều
232
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
quy
định:
“Trong
thời
hạn
02
ngày
kể
từ
ngày
ra
bản
kết
luận
điều
tra,
Cơ
quan
điều
tra
phải
giao
bản
kết
luận
điều
tra
đề
nghị
truy
tố
hoặc
bản
kết
luận
điều
tra
kèm
theo
quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
cùng
hồ
sơ
vụ
án
cho
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp;
giao
bản
kết
luận
điều
tra
đề
nghị
truy
tố
hoặc
quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
cho
bị
can
hoặc
người
đại
diện
của
bị
can;
gửi
bản
kết
luận
điều
tra
đề
nghị
truy
tố
hoặc
quyết
định
đình
chỉ
điều
tra
cho
người
bào
chữa;
thông
báo
cho
bị
hại,
đương
sự
và
người
bảo
vệ
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
họ”.
Khoản
2
Điều
240
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
quy
định:
“Trong
thời
hạn
03
ngày
kể
từ
ngày
ra
một
trong
các
quyết
định
quy
định
tại
khoản
1
Điều
này,
Viện
kiểm
sát
phải
thông
báo
cho
bị
can,
người
bào
chữa
hoặc
người
đại
diện
của
bị
can,
bị
hại
biết
việc
trả
hồ
sơ
để
điều
tra
bổ
sung;
giao
cho
bị
can
hoặc
người
đại
diện
của
bị
can
và
gửi
cho
Cơ
quan
điều
tra,
người
bào
chữa
bản
cáo
trạng,
quyết
định
đình
chỉ
vụ
án
hoặc
quyết
định
tạm
đình
chỉ
vụ
án,
quyết
định
đình
chỉ
vụ
án
đối
với
bị
can
hoặc
quyết
định
tạm
đình
chỉ
vụ
án
đối
với
bị
can;
thông
báo
cho
bị
hại,
đương
sự,
người
bảo
vệ
quyền
và
lợi
ích
hợp
pháp
của
họ”.
Tuy
nhiên,
trong
thực
tế
khi
Cơ
quan
điều
tra
ban
hành
Bản
kết
luận
điều
tra,
Viện
kiểm
sát
đã
ban
Cáo
trạng
thì
bị
can
bỏ
trốn,
không
xác
định
được
ở
đâu
nên
không
thể
giao
Bản
kết
luận
điều
tra
và
Cáo
trạng
đúng
thời
hạn
quy
định,
không
thuộc
trường
hợp
tạm
đình
chỉ
hoặc
đình
chỉ
nên
khó
khăn
trong
việc
chuyển
giao
hồ
sơ
sang
giai
đoạn
tiến
hành
tố
tụng
tiếp
theo.
Đề
xuất,
kiến
nghị:
-
Bổ
sung
khoản
4
Điều
232:
“Trường
hợp
đã
ban
hành
Bản
kết
luận
điều
tra
đề
nghị
truy
tố
nhưng
không
giao
được
cho
bị
can
trong
trường
hợp
bị
can
bỏ
trốn
hoặc
không
xác
định
được
bị
can
đang
ở
đâu
thì
Cơ
quan
điều
tra
chuyển
hồ
sơ
vụ
án
và
Bản
kết
luận
điều
tra
đề
nghị
truy
tố
đến
Viện
kiểm
sát
cùng
cấp
để
Viện
kiểm
sát
xem
xét,
quyết
định
việc
truy
tố”.
-
Bổ
sung
Điều
244:
“Trường
hợp
đã
ban
hành
Cáo
trạng
truy
tố
nhưng
không
giao
được
cho
bị
can
trong
trường
hợp
bị
can
bỏ
trốn
hoặc
không
xác
định
được
bị
can
đang
ở
đâu
thì
Viện
kiểm
sát
chuyển
hồ
sơ
vụ
án
và
Bản
Cáo
trạng
truy
tố
đến
Toà
án
để
Toà
án
xem
xét
việc
xét
xử
theo
quy
định”.
Trên
đây
là
một
số
đề
xuất,
kiến
nghị
sửa
đổi,
bổ
sung
một
số
quy
định
của
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
năm
2015
(sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2021)
rất
mong
được
bạn
đọc
chia
sẻ,
thảo
luận,
phản
ánh
trong
quá
trình
xây
dựng
pháp
luật.
Đề
nghị
Viện
KSND
và
Toà
án
nhân
dân
tối
cáo
sớm
có
hướng
dẫn,
đề
nghị
chỉnh
sửa
cho
phù
hợp
nhằm
tháo
gỡ,
khắc
phục
nhứng
khó
khăn,
vướng
mắc
như
nêu
ở
trên./.
Nguyễn
Ngọc
Anh
-
Viện
KSND
huyện
Sơn
Dương