Trong
qua
trình
áp
dụng
việc
tổng
hợp
hình
phạt
của
nhiều
bản
án,
tôi
thấy
có
những
vướng
mắc
quy
định
chưa
cụ
thể
như
sau:
Điều
51
-
Tổng
hợp
hình
phạt
của
nhiều
bản
án
BLHS
quy
định:
1.
Trong
trường
hợp
một
người
đang
phải
chấp
hành
một
bản
án
mà
lại
bị
xét
xử
về
tội
đã
phạm
trước
khi
có
bản
án
này,
thì
Tòa
án
quyết
định
hình
phạt
đối
với
tội
đang
bị
xét
xử,
sau
đó
quyết
định
hình
phạt
chung
theo
quy
định
tại
Điều
56
của
Bộ
luật
này.
Thời
gian
đã
chấp
hành
hình
phạt
của
bản
án
trước
được
trừ
vào
thời
hạn
chấp
hành
hình
phạt
chung.
2.
Khi
xét
xử
một
người
đang
phải
chấp
hành
một
bản
án
mà
lại
phạm
tội
mới,
Tòa
án
quyết
định
hình
phạt
đối
với
tội
mới,
sau
đó
tổng
hợp
với
phần
hình
phạt
chưa
chấp
hành
của
bản
án
trước
rồi
quyết
định
hình
phạt
chung
theo
quy
định
tại
Điều
56
của
Bộ
luật
này.
3.
Trong
trường
hợp
một
người
phải
chấp
hành
nhiều
bản
án
đã
có
hiệu
lực
pháp
luật
mà
các
hình
phạt
của
các
bản
án
chưa
được
tổng
hợp,
thì
Chánh
án
Toà
án
ra
quyết
định
tổng
hợp
hình
phạt
của
các
bản
án
theo
quy
định
tại
khoản
1
và
khoản
2
Điều
này.
Điều
luật
trên
cho
thấy
việc
tổng
hợp
hình
phạt
của
nhiều
bản
án
phải
thỏa
mãn
điều
kiện:
Bản
án
được
tổng
hợp
hình
phạt
phải
là
bản
án
đã
phát
sinh
hiệu
lực
pháp
luật.
Thực
tế
xảy
ra
không
ít
các
trường
hợp
người
bị
kết
án
tử
hình
được
chuyển
thành
tù
chung
thân
khi
người
bị
kết
án
làm
đơn
xin
ân
giảm
được
Chủ
tich
nước
chấp
nhận
hoặc
họ
là
phụ
nữ
có
thai,
đang
nuôi
con
dưới
36
tháng
tuổi,
hay
là
người
được
đặc
xá,
nhưng
trong
thời
gian
đang
thi
hành
án
họ
lại
bị
phát
hiện
trước
khi
bị
kết
án
áp
dụng
hình
phạt
tử
hình
họ
còn
có
hành
vi
phạm
tội
khác
hay
trong
khi
thi
hành
án
(hoặc
chấp
hành
xong
hình
phạt
tù
do
được
giảm
mức
hình
phạt
đã
tuyên
hoặc
được
đặc
xá)
họ
lại
phạm
tội,
bị
xét
xử
thì
việc
tổng
hợp
hình
phạt
phải
viết
dài
dòng
vì
chưa
có
quy
định
cụ
thể.
Ví
dụ:
Trần
Thị
Phấn,
sinh
năm
1965,
trú
tại
tổ
36
phường
Trần
Phú
thành
phố
Hà
Giang,
tỉnh
Hà
Giang,
ngày
8/12/1996
bị
bắt
giam
về
tội
Mua
bán
trái
phép
chất
ma
túy,
năm
1999
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
y
án
sơ
thẩm
xử
phạt
bị
cáo
tử
hình,
do
Trần
Thị
Phấn
đang
nuôi
con
dưới
36
tháng
nên
được
chuyển
hình
phạt
tử
hình
thành
hình
phạt
tù
chung
thân,
trong
khi
đang
thi
hành
án
ở
trại
giam,
năm
2005
Phấn
bị
khởi
tố
về
hành
vi
năm
1995
cùng
các
đồng
phạm
mua
bán
trái
phép
4
Kg
thuốc
phiện.
Vì
Bộ
luật
hình
sự
chỉ
quy
định
tổng
hợp
hình
phạt
của
nhiều
bản
án,
nhưng
bản
phúc
thẩm
đã
tuyên
áp
dụng
hình
phạt
tử
hình
đối
với
bị
cáo
đã
được
thay
đổi
do
quyết
định
chuyển
hình
phạt
của
chánh
án
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao,
nhưng
“Quyết
định
chuyển
hình
phạt”
không
phải
là
bản
án
nên
phần
quyết
định
áp
dụng
hình
phạt
của
bản
án
sơ
thẩm
số
113/2006/HSST
ngày
25/12/2006
của
Tòa
án
nhân
dân
tỉnh
Tuyên
Quang
phải
ghi:
“
Xử
phạt
Trần
Thị
Phấn
bốn
năm
tù,
tổng
hợp
hình
phạt
tù
chung
thân
của
bản
án
hình
sự
phúc
thẩm
số
1546
ngày
24/8/1999
của
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
xử
phạt
Trần
Thị
Phấn
Tử
hình,
sau
đó
được
Chánh
án
TAND
tối
cao
ra
Quyết
định
số
04
/QĐ
ngày
20/9/2000,
chuyển
hình
phạt
từ
tử
hình
xuống
tù
chung
thân.
Thời
hạn
tù
tính
từ
ngày
tạm
giam…”
Hay
trường
hợp
Xiêng
Phênh,
Quốc
tịch
Lào,
tháng
1/1995
có
hành
vi
mua
bán
trái
phép
chất
ma
túy
bị
kết
án
tử
hình.
Thực
hiện
quyết
định
ân
giảm
của
Chủ
tịch
nước,
Chánh
án
Tòa
án
xử
sơ
thẩm
ra
quyết
định
thi
hành
án
phạt
tù
chung
thân
đối
với
Xiêng
Phênh,
năm
2000
phạm
nhân
này
được
đặc
xá
về
nước,
nhưng
đến
ngày
08/4/2012,
ông
ta
đã
bị
Bộ
đội
Biên
phòng
tỉnh
Hà
Tĩnh
và
Công
an
tỉnh
Bôlykhămxay
(Lào)
bắt
giữ
cùng
39
bánh
heroin.
Theo
khoản
2
Điều
49
BLHS,
lần
phạm
tội
này
Xiêng
Phênh
thuộc
diện
“tái
phạm
nguy
hiểm”.
Nhưng
lấy
văn
bản
nào
để
nêu
tình
tiết
tăng
nặng
trách
nhiệm
hình
sự
trong
các
giai
đoạn
tố
tụng?
Dựa
vào
bản
án
quyết
định
hình
phạt
tử
hình
thì
bản
án
này
đã
được
thay
đổi
về
loại
hình
phạt,
dùng
Quyết
định
ân
giảm
của
Chủ
tích
nước
thì
không
phải
là
bản
án,
theo
chúng
tôi
hợp
lý
nhất
trong
trường
hợp
này
là
sử
dụng
Quyết
định
thi
hành
án
của
Chánh
án
đã
xử
sơ
thẩm
đối
với
Xiêng
Phênh
về
hình
phạt
tù
chung
thân.
Từ
thực
tiễn
nêu
trên
tôi
thấy
Điều
51
BLHS
nên
bổ
sung
thêm
khoản
4
theo
hướng
như
sau:
“Quyết
định
chuyển
hình
phạt
tử
hình
thành
tù
chung
thân
của
Chánh
án
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
hay
Quyết
định
thi
hành
án
tù
chung
thân
thực
hiện
theo
Quyết
định
ân
giảm
án
tử
hình
của
Chủ
tịch
nước
được
coi
như
một
bản
án”
.
Nếu
đề
xuất
này
được
chấp
nhận
thì
phần
tổng
hợp
hình
phạt
của
nhiều
bản
án
cũng
như
việc
ghi
tên
văn
bản
tố
tụng
để
tính
tái
phạm,
tái
phạm
nguy
hiểm
quy
định
tại
tại
các
điều
49
và
51BLHS
sẽ
hoàn
thiện
và
có
căn
cứ
để
áp
dụng.
Nguyễn
Thành
Minh
Nguyên
Kiểm
sát
viên
VKSND
tỉnh
Tuyên
Quang