Trong
thực
hiện
hoạt
động
công
tác
kiểm
sát
thi
hành
án
hình
sự,
thấy
còn
có
khó
khăn
vướng
mắc
cần
được
nghiên
cứu
xem
xét
để
các
cơ
quan
liên
quan
thống
nhất
áp
dụng
thực
hiện;
Cụ
thể:
Có
trường
hợp
phạm
nhân
phạm
đang
chấp
hành
án
tại
Trại
giam
của
Bộ
Công
an,
phạm
tội
trộm
cắp
tài
sản,
trốn
trại
từ
năm
1979
đến
nay
chưa
bắt
được,
trị
giá
tài
sản
trộm
cắp
so
với
thời
điểm
hiện
tại
quá
nhỏ,
phạm
nhân
đến
nay
trên
70
tuổi,
để
miễn
hình
phạt
tù
còn
lại
cho
phạm
nhân,
thanh
loại
đối
tượng
truy
nã
ra
khỏi
danh
sách
truy
nã
của
trại
giam
nhưng
quá
trình
phối
hợp
thực
hiện
công
tác
còn
có
nhiều
quan
điểm
khác
nhau
về
việc
thanh
loại
đối
tượng
ra
khỏi
danh
sách
truy
nã,
xin
nêu
cụ
thể
trường
hợp
sau:
Phạm
Văn
V,
sinh
năm
1948,
đăng
ký
hộ
khẩu:
xã
Trác
Văn,
huyện
Duy
Tiên,
tỉnh
Hà
Nam.
Tiền
sự
(ghi
trong
bản
án)
có
06
tiền
sự
như
sau:
“Ngày
18/11/1970
Công
an
tỉnh
Hà
Bắc
bắt
về
trộm
cắp
tài
sản
riêng
của
công
dân;
-
Ngày
23/5/1972
Công
an
tỉnh
Hải
Hưng
bắt
về
giả
danh
lừa
đảo;
-
Ngày
03/12/1973
Công
an
tỉnh
Lạng
Sơn
bắt
về
trộm
cắp
tài
sản
riêng
của
công
dân;
-
Ngày
23/12/1973
Công
an
tỉnh
Yên
Bái
bắt
về
lang
thang
lừa
đảo;
-
Ngày
17/12/1976
Công
an
khu
Hai
Bà,
Hà
Nội
bắt
về
đêm
khuya
đi
mang
dao
găm
trong
người;
Bị
cáo
tự
khai
có
01
án:
năm
1972
bị
Toà
án
tỉnh
Hải
Hưng
xử
30
tháng
tù
giam
về
tội
trộm
cắp
tài
sản
riêng
công
dân”.
Nội
dung
vụ
án:
Ngày
24/11/1976,
Phạm
Văn
V
cùng
Nguyễn
Đình
P
lén
lút
vào
khu
tập
thể
công
nhân
công
trình
2,
xí
nghiệp
xây
lắp
I,
Nhà
máy
thuỷ
điện
Thái
Nguyên
trộm
cắp
một
số
tài
sản
trị
giá
162
đồng
(Một
trăm
sáu
mươi
hai
đồng),
sau
ngày
14/9/1985
Nhà
nước
đổi
tiền
còn
giá
trị
16,2
đồng
(Mười
sau
đồng
hai
hào).
Phạm
Văn
V
bị
tạm
giam
từ
ngày
15/12/1976.
Ngày
20/9/1978,
Phạm
Văn
V
bị
Toà
án
nhân
dân
thành
phố
Hà
Nội
xét
xử
sơ
thẩm
tại
bản
án
số
201
về
tội
Trộm
cắp
tài
sản
riêng
của
công
dân,
nội
dung
bản
án
tuyên:
“Áp
dụng
khoản
2
Điều
6,
khoản
2
Điều
16,
Điều
17
Pháp
lệnh
ngày
21/10/1970
trừng
trị
các
tội
xâm
phạm
tài
sản
riêng
của
công
dân,
phạt
V
04
năm
tù”.
Phạm
Văn
V
chấp
hành
án
tại
Trại
giam
Bộ
Công
an,
ngày
26/11/1979,
lợi
dụng
được
đưa
đi
điều
trị
tại
bệnh
viện
đã
bỏ
trốn;
ngày
19/9/1985,
Trại
giam
ra
Lệnh
truy
nã
số
26
đối
với
Phạm
Văn
V,
từ
đó
đến
nay
chưa
bắt
được
phạm
nhân
Phạm
Văn
V.
Thực
hiện
Điện
số
100/C01-P1;
ĐK.K
ngày
24/4/2020
của
Ban
chỉ
đạo
327
Bộ
Công
an
và
Điện
số
828/ĐK.K
ngày
04/5/2020
của
Cục
C10
Bộ
Công
an
về
thực
hiện
công
tác
truy
nã,
truy
tìm
năm
2020.
Đánh
giá
đúng
thực
trạng
đối
tượng
truy
nã
hiện
còn,
tháo
gỡ
những
khó
khăn,
vướng
mắc
trong
công
tác
truy
nã.
Qua
công
tác
phối
hợp
với
các
ngành,
nghiên
cứu
hồ
sơ
để
thanh
loại
một
số
đối
tượng
trốn
trại
từ
năm
1992
trở
về
trước
ra
khỏi
danh
sách
của
trại
giam
còn
có
quan
điểm
khác
nhau
trong
việc
thanh
loại
đối
tượng
ra
khỏi
danh
sách
trốn
trại
của
Trại
giam
như
sau:
Quan
điểm
thứ
nhất:
Đề
nghị
Toà
án
tỉnh
miễn
chấp
hành
thời
hạn
tù
còn
lại
đối
với
phạm
nhân
Phạm
Văn
V
theo
bản
án
số
201
ngày
20/8/1978
Toà
án
nhân
dân
thành
phố
Hà
Nội
xét
xử
vì
các
căn
cứ
sau:
Một
là:
Căn
cứ
điểm
a,
b
khoản
1
Điều
173
Bộ
luật
hình
sự
(BLHS)
năm
2015
quy
định:
“Người
nào
trộm
cắp
tài
sản
của
người
khác
trị
giá
từ
2.000.000
đồng
đến
dưới
50.000.000
đồng
hoặc
dưới
2.000.000
đồng
nhưng
thuộc
một
trong
các
trường
hợp
sau
đây,
thì
bị
phạt
cải
tạo
không
giam
giữ
đến
03
năm
hoặc
phạt
tù
từ
06
tháng
đến
03
năm:
a)
Đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
về
hành
vi
chiếm
đoạt
tài
sản
mà
còn
vi
phạm;
b)
Đã
bị
kết
án
về
tội
này
hoặc
về
một
trong
các
tội
quy
định
tại
các
điều
168,
169,
170,
171,
172,
174,
175
và
290
của
Bộ
luật
này,
chưa
được
xóa
án
tích
mà
còn
vi
phạm;
Như
vậy,
hành
vi
trộm
cắp
tài
sản
của
Phạm
Văn
V
quá
nhỏ
so
với
mức
khởi
điểm
quy
định
của
BLHS
và
theo
giá
trị
hiện
nay;
Hai
là:
Phạm
nhân
V
đã
trốn
trại
đến
nay
đã
43
năm
chưa
bắt
được;
Ba
là:
Phạm
nhân
đã
già
trên
70
tuổi
ít
còn
nguy
hiểm
cho
xã
hội.
Quan
điểm
thứ
hai:
Không
có
căn
cứ
pháp
luật
để
miễn
chấp
hành
hình
phạt
tù
còn
lại
đối
với
phạm
nhân
V
vì:
Một
là:
Mặc
dù
tài
sản
Phạm
Văn
V
trộm
cắp
theo
quy
định
của
BLHS
là
16,2
đồng
quá
nhỏ
so
với
mức
tối
thiểu
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự
nhưng
V
bị
xử
theo
khoản
2
Điều
6
Pháp
lệnh
ngày
21/10/1970
trừng
trị
các
tội
xâm
phạm
tài
sản
riêng
công
dân
có
khung
hình
phạt
tù
từ
hai
năm
đến
mười
năm
tù,
tương
đương
với
khoản
2
Điều
173
BLHS
năm
2015
nên
không
được
miễn
chấp
hành
hình
phạt
tù
còn
lại;
Hai
là:
Theo
quy
định
tại
Điều
62
BLHS
quy
định
miễn
chấp
hành
hình
phạt
như
sau:
“1.
Người
bị
kết
án
được
miễn
chấp
hành
hình
phạt
khi
được
đặc
xá
hoặc
đại
xá.
2.
Người
bị
kết
án
cải
tạo
không
giam
giữ
hoặc
tù
có
thời
hạn
đến
03
năm
chưa
chấp
hành
hình
phạt
thì
theo
đề
nghị
của
Viện
trưởng
Viện
kiểm
sát,
Tòa
án
có
thể
quyết
định
miễn
chấp
hành
hình
phạt,
nếu
thuộc
một
trong
các
trường
hợp
sau
đây:
a)
Sau
khi
bị
kết
án
đã
lập
công;
b)
Mắc
bệnh
hiểm
nghèo;
c)
Chấp
hành
tốt
pháp
luật,
có
hoàn
cảnh
gia
đình
đặc
biệt
khó
khăn
và
xét
thấy
người
đó
không
còn
nguy
hiểm
cho
xã
hội
nữa.
3.
Người
bị
kết
án
phạt
tù
có
thời
hạn
trên
03
năm,
chưa
chấp
hành
hình
phạt
nếu
đã
lập
công
lớn
hoặc
mắc
bệnh
hiểm
nghèo
và
người
đó
không
còn
nguy
hiểm
cho
xã
hội
nữa,
thì
theo
đề
nghị
của
Viện
trưởng
Viện
kiểm
sát,
Tòa
án
có
thể
quyết
định
miễn
chấp
hành
toàn
bộ
hình
phạt.
4.
Người
bị
kết
án
phạt
tù
đến
03
năm,
đã
được
tạm
đình
chỉ
chấp
hành
hình
phạt,
nếu
trong
thời
gian
được
tạm
đình
chỉ
mà
đã
lập
công
hoặc
chấp
hành
tốt
pháp
luật,
hoàn
cảnh
gia
đình
đặc
biệt
khó
khăn
và
xét
thấy
người
đó
không
còn
nguy
hiểm
cho
xã
hội
nữa,
thì
theo
đề
nghị
của
Viện
trưởng
Viện
kiểm
sát,
Tòa
án
có
thể
quyết
định
miễn
chấp
hành
phần
hình
phạt
còn
lại”.
Trường
hợp
Phạm
Văn
V
không
thuộc
một
trong
các
trường
hợp
quy
định
tại
Điều
62
của
BLHS
nên
không
được
miễn
hình
phạt
tù
còn
lại;
Ba
là:
Mặc
dù
tài
sản
chiếm
đoạt
có
giá
trị
thấp
hơn
mức
khởi
điểm
bị
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự
về
tội
trộm
cắp
tài
sản
so
với
Điều
173
LHS
nhưng
bản
án
ghi:“Ngày
18/11/1970
Công
an
tỉnh
Hà
Bắc
bắt
về
trộm
cắp
tài
sản
riêng
của
công
dân;
Ngày
23/5/1972
Công
an
tỉnh
Hải
Hưng
bắt
về
giả
danh
lừa
đảo;
Ngày
03/12/1973
Công
an
tỉnh
Lạng
Sơn
bắt
về
trộm
cắp
tài
sản
riêng
của
công
dân;
bị
cáo
tự
khai
có
01
án:
năm
1972
bị
Toà
án
tỉnh
Hải
Hưng
xử
30
tháng
tù
giam
về
tội
trộm
cắp
tài
sản
riêng
công
dân”,
(nội
dung
này
chỉ
được
thể
hiện
trong
bản
án,
không
có
hồ
sơ).
Như
vậy
những
lần
chiếm
đoạt
tài
sản
trên
chưa
rõ
đã
bị
xử
lý
hành
chính
chưa,
nếu
đã
bị
xử
lý
rồi
nhưng
chưa
thi
hành
quyết
định
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
đó
hoặc
lần
kết
án
trước
nếu
chưa
chấp
hành
xong
các
quyết
định
của
bản
án
thì
vẫn
bị
coi
là
tài
sản
sản
bị
chiếm
đoạt
dưới
hai
triệu
đồng
nhưng
thuộc
trường
hợp
quy
định
tại
điểm
a,
b
khoản
1
Điều
173
BLHS
(đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
về
hành
vi
chiếm
đoạt
tài
sản
mà
còn
vi
phạm;
Đã
bị
kết
án
về
tội
này
hoặc
về
một
trong
các
tội
quy
định
tại
các
điều
168,
169,
170,
171,
172,
174,
175
và
290
của
Bộ
luật
này,
chưa
được
xóa
án
tích
mà
còn
vi
phạm)
do
đó
không
được
miễn
hình
phạt
theo
quy
định
của
BLHS.
Quan
điểm
tác
giả
đồng
tình
với
quan
điểm
thứ
nhất,
miễn
chấp
hành
hình
phạt
tù
còn
lại
đối
với
phạm
nhân
Phạm
Văn
V
vì
tài
sản
bị
chiếm
đoạt
có
giá
trị
quá
nhỏ,
căn
cứ
khoản
2
Điều
8
BLHS
thì
những
hành
vi
tuy
có
dấu
hiệu
của
tội
phạm
nhưng
tính
chất
nguy
hiểm
cho
xã
hội
không
đáng
kể
thì
không
phải
là
tội
phạm;
do
chuyển
biến
của
tình
hình
kinh
tế,
chính
trị-
xã
hội
hiện
tại
so
với
thời
điểm
xét
xử
quá
xa
(trên
40
năm)
mà
hành
vi
đó
không
còn
nguy
hiểm
cho
xã
hội
nữa,
phạm
nhân
đã
trên
70
tuổi,
việc
truy
nã
để
bắt
phạm
nhân
chưa
có
kết
quả
do
đó
đề
nghị
cơ
quan
có
thẩm
quyền
ra
quyết
định
miễn
hình
phạt
còn
lại
đối
với
phạm
nhân
V.
Kính
mong
nhận
được
được
sự
trao
đổi
và
góp
ý
của
các
độc
giả.
Tạ
Văn
Thiển
-
P8
VKS
tỉnh
Tuyên
Quang