Thống
kê
nghiệp
vụ
(TKNV)
là
một
trong
những
công
tác
của
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
được
quy
định
tại
Luật
Tổ
chức
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
năm
2014.
Thông
qua
công
tác
này
giúp
các
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
đánh
giá
chính
xác,
khách
quan
tình
hình
vi
phạm
pháp
luật,
kết
quả
hoạt
động
của
các
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng,
các
cơ
quan
hữu
quan
trong
công
tác
phòng,
chống
tội
phạm
và
chấp
hành
pháp
luật;
cung
cấp
thông
tin
đầy
đủ,
chính
xác,
kịp
thời
để
phục
vụ
hoạt
động
phòng,
chống
tội
phạm
và
các
hoạt
động
quản
lý,
điều
hành
có
liên
quan.
Số
liệu
thống
kê
(SLTK)
đã
giúp
cho
Lãnh
đạo
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
các
cấp
nắm
tình
hình,
diễn
biến
tội
phạm
và
vi
phạm,
kết
quả
công
tác
thực
hiện
chức
năng
của
ngành
để
từ
đó
có
những
đường
hướng,
sách
lược
chỉ
đạo,
điều
hành
sát
đúng,
tích
cực,
hiệu
quả.
Có
thể
nói
công
tác
thống
kê
trong
ngành
Kiểm
sát
nhân
dân
đã
góp
một
phần
đáng
kể
trong
cuộc
đấu
tranh
chống
và
phòng
ngừa
vi
phạm,
tội
phạm
của
ngành
Kiểm
sát
nhân
dân
nói
riêng
và
của
các
cơ
quan
tư
pháp
nói
chung.
Trong
những
năm
qua,
công
tác
TKNV
của
ngành
Kiểm
sát
nhân
dân
nói
chung
cũng
như
của
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
(VKSND)
tỉnh
Tuyên
Quang
nói
riêng
đã
có
những
bước
chuyển
biến
tích
cực.
Những
kết
quả
nổi
bật
trong
thực
hiện
công
tác
TKNV
ở
VKSND
tỉnh
Tuyên
Quang
được
thể
hiện
ở
các
nội
dung
sau:
Thứ
nhất:
SLTK
trong
lĩnh
vực
tư
pháp
của
VKSND
tỉnh
ngày
càng
phát
huy
tác
dụng
và
đã
trở
thành
một
trong
những
căn
cứ
quan
trọng
để
các
cơ
quan
có
thẩm
quyền
lập
kế
hoạch,
chương
trình,
đánh
giá,
phân
tích
thực
trạng
và
đề
ra
giải
pháp
phòng,
chống
vi
phạm,
tội
phạm
ở
địa
phương
và
là
cơ
sở
để
từng
ngành
có
biện
pháp
nhằm
tiếp
tục
nâng
cao
hiệu
quả,
chất
lượng
trong
thực
hiện
chức
năng,
nhiệm
vụ.
Thứ
hai:
SLTK
của
các
khâu
công
tác
được
sử
dụng
chính
thức
để
xây
dựng
các
loại
báo
cáo
của
ngành
như
báo
cáo
sơ
kết,
tổng
kết
công
tác
hằng
năm;
phục
vụ
xây
dựng
báo
cáo
của
Viện
trưởng
VKSND
tối
cao
trước
các
kỳ
họp
Quốc
hội;
báo
cáo
cải
cách
tư
pháp;
phòng,
chống
tham
nhũng;
các
báo
cáo
trước
cấp
ủy
và
báo
cáo
của
Viện
trưởng
Viện
kiểm
sát
trước
các
kỳ
họp
của
Hội
đồng
nhân
dân
cùng
cấp…
Đồng
thời
cung
cấp
SLTK
hình
sự
liên
ngành
cho
các
cơ
quan
Công
an
-
Tòa
án
để
xây
dựng
các
báo
cáo
theo
chuyên
đề,
đột
xuất
của
từng
ngành.
Thứ
ba,
Ứng
dụng
công
nghệ
thông
tin
và
truyền
thông
trong
công
tác
xử
lý,
tổng
hợp
và
truyền
đưa
thông
tin
được
tăng
cường,
Phòng
Thống
kê
tội
phạm
và
Công
nghệ
thông
tin
VKSND
tỉnh,
các
Phòng
nghiệp
vụ
và
các
VKSND
huyện,
thành
phố
đều
đã
sử
dụng
các
phần
mềm
TKNV,
phần
mềm
thống
kê
(TK)
hình
sự
liên
ngành…
thuận
lợi
trong
việc
khai
thác,
cung
cấp
dữ
liệu
TK
trong
các
thời
điểm
khác
nhau
khi
có
yêu
cầu;
sử
dụng
đường
truyền
ftp3
để
truyền
file
dữ
liệu
thống
kê
từ
các
Phòng
nghiệp
vụ,
các
VKSND
huyện,
thành
phố
về
máy
chủ
VKSND
tỉnh
và
đường
truyền
ftp4
truyền
file
dữ
liệu
tổng
hợp
của
VKSND
tỉnh
về
máy
chủ
VKSND
tối
cao.
Trên
cơ
sở
các
file
truyền
về,
đơn
vị
tiếp
nhận
sử
dụng
phần
mềm
để
tích
hợp
số
liệu
thành
các
biểu
TK
với
đầy
đủ
các
chỉ
tiêu
theo
quy
định
của
ngành,
đảm
bảo
dữ
liệu
được
truyền
gửi
giữa
các
cấp
kiểm
sát
được
nhanh
chóng,
thuận
tiện
và
chính
xác.
Năm
2014,
VKSND
tỉnh
Tuyên
Quang
đã
xây
dựng
được
Trang
tin
điện
tử
của
đơn
vị,
trong
đó
mở
riêng
một
chuyên
mục
về
công
tác
TK
để
các
đơn
vị
thuận
tiện
trong
việc
tải,
cài
đặt
các
phần
mềm
TK;
đăng
tải
các
biểu
mẫu,
hướng
dẫn
nghiệp
vụ
về
công
tácTK
và
các
văn
bản
yêu
cầu
tổng
hợp
số
liệu
TK
theo
yêu
cầu
của
cơ
quan
có
thẩm
quyền.
Hiện
nay
100%
cán
bộ
làm
công
tác
chuyên
môn
nghiệp
vụ
trong
ngành
Kiểm
sát
Tuyên
Quang
được
trang
cấp,
sử
dụng
máy
vi
tính
trong
thực
hiện
nhiệm
vụ,
đảm
bảo
mỗi
cán
bộ
nghiệp
vụ
làm
công
tác
TK
đều
có
máy
vi
tính
nối
mạng
internet,
mạng
nội
bộ,
mạng
LAN
để
thực
hiện
nhiệm
vụ.
Thứ
tư,
ngày
02/4/2013,
Viện
trưởng
VKSND
tỉnh
Tuyên
Quang
có
Quyết
định
số
415/QĐ-VKS-TKTP
về
việc
ban
hành
Quy
chế
làm
việc
của
Phòng
Thống
kê
tội
phạm
và
Công
nghệ
thông
tin
VKSND
tỉnh,
trong
đó
quy
định
rõ
chức
năng
nhiệm
vụ
của
đơn
vị
chuyên
trách
trong
quản
lý
và
tổ
chức
thực
hiện
công
tác
TK
trong
ngành
Kiểm
sát
Tuyên
Quang,
của
các
đơn
vị
khác
thuộc
VKSND
tỉnh;
quy
định
cụ
thể
về
nguyên
tắc,
trách
nhiệm,
chế
độ
làm
việc,
mối
quan
hệ
công
tác,
cơ
chế
phối
hợp
trong
thực
hiện
nhiệm
vụ
TK
của
các
đơn
vị.
Việc
ban
hành
và
tổ
chức
thực
hiện
Quy
chế
nêu
trên
đã
tạo
ra
sự
đồng
bộ,
nghiêm
chỉnh,
thống
nhất
trong
thực
hiện
nhiệm
vụ
công
tác
TKNV
theo
quy
định
của
ngành.
Thứ
năm,
Sản
phẩm
thông
tin
TK
ngày
càng
được
hoàn
thiện,
hoạt
động
phổ
biến
thông
tin
TK
được
đẩy
mạnh.
Sản
phẩm
TK
quan
trọng
nhất
của
VKSND
tỉnh
Tuyên
Quang
là
báo
cáo
TK
công
tác
thực
hành
quyền
công
tố,
kiểm
sát
hoạt
động
tư
pháp
hằng
tháng,
6
tháng,
12
tháng
và
TK
vi
phạm
pháp
luật
trong
hoạt
động
tư
pháp,
TKHS,
TKTP
liên
ngành
hằng
tháng…
Hình
thức,
nội
dung,
chất
lượng
của
các
sản
phẩm
TK
ngày
càng
được
quan
tâm,
số
lượng
phát
hành
và
đối
tượng
sử
dụng
ngày
càng
được
mở
rộng.
Hệ
thống
sản
phẩm
TK
đảm
bảo
tính
thống
nhất
giữa
VKSND
tối
cao,
VKSND
tỉnh
và
VKS
cấp
huyện
có
kèm
hướng
dẫn
chi
tiết
việc
giải
thích
các
khái
niệm,
phạm
vi,
thời
điểm,
thời
kỳ
thu
thập,
phân
tổ,
kỳ
công
bố
số
liệu
giúp
cho
người
dùng
tin
hiểu
rõ
bản
chất
và
nội
hàm
của
các
chỉ
tiêu
TK.
Do
chất
lượng,
hình
thức
của
sản
phẩm
TK
ngày
càng
được
nâng
cao,
nên
sản
phẩm
TKNV
của
VKSND
tỉnh
Tuyên
Quang
được
sử
dụng
thống
nhất
trong
xây
dựng
các
báo
cáo,
trong
công
tác
chỉ
đạo
điều
hành
và
là
một
trong
những
căn
cứ
để
đánh
giá
kết
quả
thi
đua
trong
ngành.
Số
liệu
TK
hình
sự,
TK
tội
phạm
được
liên
ngành
thống
nhất
sử
dụng
để
đánh
giá
tình
hình
vi
phạm,
tội
phạm
ở
địa
phương…
Hiện
nay
trong
ngành
KSND
cũng
như
VKS
hai
cấp
của
tỉnh
Tuyên
Quang
đã
hình
thành
và
đang
sử
dụng
thống
nhất
hệ
thống
phần
mềm
với
27
biểu
TK
công
tác
thực
hành
quyền
công
tố
và
kiểm
sát
hoạt
động
tư
pháp,
TK
vi
phạm
pháp
luật
trong
hoạt
động
tư
pháp
và
06
phụ
lục
kèm
theo.
Cùng
với
đó
là
việc
thực
hiện
nhập
dữ
liệu
trên
các
phần
mềm
Quản
lý
và
TK
án
hình
sự;
phần
mềm
Quản
lý
và
TK
án
dân
sự,
hôn
nhân
và
gia
đình,
kinh
doanh
thương
mại,
lao
động,
hành
chính,
phá
sản
doanh
nghiệp.
Nhìn
chung,
hệ
thống
TKNV
trong
ngành
được
xây
dựng
đa
dạng,
tương
đối
hoàn
chỉnh
và
đầy
đủ
các
chỉ
tiêu
TK
xuyên
suốt
trong
các
giai
đoạn
tiến
hành
tố
tụng,
các
khâu
công
tác
nghiệp
vụ
của
ngành,
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
trong
việc
tổng
hợp,
xây
dựng,
khai
thác
số
liệu,
đáp
ứng
yêu
cầu
cung
cấp
thông
tin
của
ngành.
Thứ
sáu,
Cơ
sở
pháp
lý
cho
hoạt
động
TK
được
tạo
dựng
đồng
bộ
hơn.
Công
tác
thu
thập,
cung
cấp
thông
tin
ngày
càng
đi
vào
nề
nếp,
các
đơn
vị
thuộc
VKSND
tỉnh
đã
nghiêm
túc
thực
hiện
chế
độ
báo
cáo
TK,
ý
thức
trong
thực
hiện
công
tác
này
ngày
càng
được
nâng
lên.
Tuy
nhiên,
bên
cạnh
những
kết
quả
đạt
được,
hiện
nay
chất
lượng
công
tác
TKNV
vẫn
còn
một
số
hạn
chế,
bất
cập.
Số
lượng,
chất
lượng
thông
tin
TK
tuy
đã
được
nâng
lên,
nhưng
nhìn
chung
còn
chưa
đáp
ứng
so
với
yêu
cầu
cải
cách
tư
pháp.
Nguyên
nhân
là
do
hiệu
quả
hoạt
động
TK
ở
mức
độ
trung
bình;
trong
hoạt
động
TK
còn
có
sự
bất
cập
giữa
cách
tính,
mốc
thời
gian
thu
thập
một
số
chỉ
tiêu
TK;
nguồn
lực
đầu
tư
cho
các
hoạt
động
TK
còn
chưa
tương
xứng...
Những
mặt
hạn
chế
đó
là:
Một
là,
cơ
sở
vật
chất
kỹ
thuật,
nguồn
kinh
phí
và
các
điều
kiện
đáp
ứng
cho
yêu
cầu
về
công
tác
TKNV
còn
chưa
hoàn
chỉnh
và
đồng
bộ
nên
khó
khăn
trong
quá
trình
thực
hiện
hoạt
động
TK.
Hai
là,
các
Phòng
nghiệp
vụ
thuộc
VKSND
tỉnh,
các
VKSND
huyện,
thành
phố
có
vị
trí
rất
quan
trọng
trong
công
tác
TKNV
của
ngành,
đây
là
những
đơn
vị
trực
tiếp
tiến
hành
thu
thập,
đối
chiếu,
xây
dựng
số
liệu
các
chỉ
tiêu
TK.
Tuy
nhiên,
hiện
nay
công
tác
TKNV
ở
những
đơn
vị
này
có
việc
còn
chưa
đáp
ứng
được
so
với
yêu
cầu
đề
ra,
nguyên
nhân
chủ
yếu
do
hầu
hết
các
đơn
vị
nêu
trên
chưa
có
cán
bộ
TK
chuyên
trách
(trừ
Phòng
TK
tội
phạm
và
Công
nghệ
thông
tin),
trong
khi
đó
biên
chế
cán
bộ
làm
công
tác
chuyên
môn
ít,
cán
bộ
làm
công
tác
TKNV
phải
kiêm
nhiệm
nhiều
công
việc
và
chỉ
có
trình
độ
chuyên
môn
là
Cử
nhân
luật,
không
có
trình
độ
chuyên
sâu
về
công
tác
TK
nên
nhiều
khi
còn
bị
chi
phối
thời
gian
và
lúng
túng
trong
thực
hiện
nhiệm
vụ.
Bên
cạnh
đó,
nhận
thức
của
một
số
lãnh
đạo
đơn
vị
về
tầm
quan
trọng
của
công
tác
TKNV
còn
chưa
thực
sự
đầy
đủ,
dẫn
tới
thiếu
kiểm
tra,
đôn
đốc
thực
hiện
tốt
công
tác
này.
Ba
là,
hệ
thống
chỉ
tiêu
TK
còn
chưa
đồng
bộ,
thống
nhất.
Có
những
lĩnh
vực
cùng
một
chỉ
tiêu
TK
nhưng
mỗi
ngành
lại
có
quy
định
cách
tính
và
mốc
thời
gian
lấy
số
liệu
khác
nhau
nên
gây
khó
khăn,
vướng
mắc
trong
việc
thu
thập,
đối
chiếu
và
thống
nhất
số
liệu.
Ví
dụ:
Chỉ
tiêu
án
trả
hồ
sơ
để
điều
tra
bổ
sung
Tòa
án
tính
vào
số
giải
quyết
và
trừ
khỏi
tổng
số
nhưng
VKS
không
tính
vào
giải
quyết
mà
trừ
số
cũ
của
Tòa
án
trong
phần
kiểm
sát
xét
xử
và
nâng
số
cũ
của
VKS
trong
phần
VKS
phải
giải
quyết;
chỉ
tiêu
án
tạm
đình
chỉ
VKS
tính
như
số
giải
quyết
và
trừ
khỏi
tổng
số
nhưng
Tòa
án
vẫn
tính
số
tạm
đình
chỉ
tồn
tại
Tòa
án…
Theo
quy
định
của
các
ngành
thì
thời
điểm
lấy
số
liệu
TK
phục
vụ
xây
dựng
các
báo
cáo
của
từng
ngành
cũng
có
sự
khác
nhau:
Số
liệu
TK
tháng
VKS
và
Tòa
án
lấy
từ
ngày
01
đến
ngày
cuối
cùng
của
tháng
báo
cáo,
cơ
quan
Công
an
lấy
từ
ngày
16
tháng
trước
đến
hết
ngày
15
của
tháng
lập
báo
cáo,
Cơ
quan
thi
hành
án
dân
sự
tính
từ
ngày
đầu
của
năm
báo
cáo
(01/10
năm
trước)
lũy
kế
đến
ngày
cuối
cùng
của
tháng
báo
cáo
cho
đến
hết
tháng
9
năm
sau;
số
liệu
tổng
kết
của
VKS
tính
từ
ngày
01/12
năm
trước
đến
hết
30/11
của
năm
báo
cáo
còn
ngành
Tòa
án,
Thi
hành
án
dân
sự
tính
từ
ngày
01/10
năm
trước
đến
hết
30/9
của
năm
báo
cáo…
Bốn
là,
một
số
văn
bản
hướng
dẫn
thực
hiện
của
liên
ngành
Trung
ương
còn
chưa
thống
nhất
về
thời
điểm
thực
hiện
việc
thu
thập,
tổng
hợp
số
liệu
nên
còn
gặp
khó
khăn
trong
việc
đối
chiếu,
tổng
hợp,
xây
dựng
báo
cáo
TK
như:
Thông
tư
liên
tịch
số
01/2005
quy
định
về
TK
hằng
tháng
lấy
số
liệu
từ
ngày
01
đến
ngày
cuối
cùng
của
tháng
TK;
trong
khi
đó
Thông
tư
liên
tịch
số
06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN-VKSTC
ngày
02/8/2013
của
Bộ
Công
an,
Bộ
Quốc
phòng,
Bộ
Tài
chính,
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn,
VKSND
tối
cao
hướng
dẫn
thi
hành
quy
định
của
Bộ
luật
tố
tụng
hình
sự
về
tiếp
nhận,
giải
quyết
tố
giác,
tin
báo
về
tội
phạm
và
kiến
nghị
khởi
tố
quy
định
mốc
lấy
SLTK
về
kết
quả
giải
quyết
tố
giác,
tin
báo
về
tội
phạm
và
kiến
nghị
khởi
tố
hằng
tháng
được
tính
từ
ngày
16
tháng
trước
đến
hết
ngày
15
của
tháng
lập
báo
cáo
TK.
Năm
là,
công
nghệ
thông
tin
đã
được
triển
khai
ứng
dụng
trong
CTTK
nhưng
chưa
sâu,
chưa
đáp
ứng
được
so
với
yêu
cầu
công
việc,
hệ
thống
máy
vi
tính
đang
sử
dụng
nhiều
máy
có
cấu
hình
thấp,
hết
khấu
hao
nên
trong
quá
trình
sử
dụng
các
phần
mềm
TK
thường
hay
báo
lỗi,
việc
sử
dụng
một
số
phần
mềm
còn
phải
mất
nhiều
thao
tác,
tính
năng
kiểm
tra,
khai
thác
dữ
liệu
đã
được
cập
nhật
trên
một
số
phần
mềm
còn
chưa
cao.
Từ
những
vấn
đề
nêu
trên,
để
tiếp
tục
thực
hiện
tốt
công
tác
TKNV,
theo
cá
nhân
tôi,
trong
thời
gian
tới
cần
tập
trung
thực
hiện
tốt
một
số
nội
dung
sau:
-
Tiếp
tục
chú
trọng
việc
đào
tạo
cập
nhật
kiến
thức
chuyên
môn
nghiệp
vụ
TK,
kiến
thức
lý
luận,
thực
tiễn,
nâng
cao
trình
độ
ngoại
ngữ,
tin
học
và
các
kiến
thức
liên
quan
cho
đội
ngũ
cán
bộ,
công
chức
làm
công
tác
TKNV,
dần
hình
thành
đội
ngũ
cán
bộ,
công
chức
có
trình
độ
cao
và
kinh
nghiệm
chuyên
sâu
về
TK,
đủ
khả
năng
đáp
ứng
yêu
cầu
ngày
càng
cao
của
công
tác
này.
-
Bảo
đảm
đủ
số
lượng
và
nâng
cao
chất
lượng
nguồn
nhân
lực
của
bộ
máy
làm
công
tác
TKNV,
trong
đó
chú
trọng
bảo
đảm
ổn
định
đội
ngũ
những
người
làm
công
tác
TKNV
của
các
đơn
vị
thuộc
VKSND
tỉnh.
-
Tăng
cường
công
tác
nghiên
cứu
và
đẩy
mạnh
ứng
dụng
kết
quả
nghiên
cứu
vào
thực
tiễn
để
đáp
ứng
yêu
cầu
về
công
tác
TKNV,
nhất
là
TK
công
tác
thực
hành
quyền
công
tố,
kiểm
sát
hoạt
động
tư
pháp
và
TK
vi
phạm
pháp
luật
trong
hoạt
động
tư
pháp.
-
Tích
cực
tham
gia
hoàn
thiện
môi
trường
pháp
lý
cho
công
tác
TKNV,
đây
là
một
trong
những
yếu
tố
quyết
định
chất
lượng
của
thông
tin
TK.
Nghiêm
túc
tổ
chức
thực
hiện
việc
tổng
kết,
đánh
giá,
rút
kinh
nghiệm
tình
hình
thực
hiện
công
tác
TKNV
theo
yêu
cầu
của
ngành,
qua
đó
đề
ra
những
kiến
nghị,
đề
xuất,
giải
pháp
nhằm
nâng
cao
chất
lượng
và
thực
hiện
tốt
hơn
công
tác
này
trong
thời
gian
tới.
-
Tăng
cường
ứng
dụng
công
nghệ
thông
tin
vào
công
tác
TKNV,
đây
là
công
cụ
quan
trọng
phục
vụ
công
tác
TKNV.
Quan
tâm
phát
triển
đồng
bộ
về
hạ
tầng
kỹ
thuật,
phần
mềm
ứng
dụng,
cơ
sở
dữ
liệu,
kết
nối,
chia
sẻ
và
phổ
biến
thông
tin
TK;
ứng
dụng
rộng
rãi
công
nghệ
thông
tin
trong
tất
cả
các
khâu
thu
thập,
xử
lý,
tổng
hợp,
phân
tích,
dự
báo,
lưu
giữ,
chia
sẻ
và
công
bố
thông
tin
TK.
Tăng
cường
sử
dụng
Trang
thông
tin
điện
tử
VKSND
tỉnh
để
công
bố,
chia
sẻ
thông
tin,
phổ
biến,
trao
đổi
kiến
thức,
kinh
nghiệm
thực
tiễn
trong
thực
hiện
nhiệm
vụ
công
tác
TK.
-
Phòng
TK
tội
phạm
và
Công
nghệ
thông
tin
VKSND
tỉnh,
đơn
vị
chuyên
trách
về
công
tác
TKNV,
nâng
cao
vai
trò,
trách
nhiệm
là
đơn
vị
đầu
mối,
chịu
trách
nhiệm
tham
mưu
cho
Lãnh
đạo
Viện
tổ
chức
thực
hiện
toàn
bộ
công
tác
TKNV
trong
phạm
vi
ngành
Kiểm
sát
Tuyên
Quang;
đề
xuất,
tổ
chức
thực
hiện
các
giải
pháp
nâng
cao
chất
lượng
ứng
dụng
công
nghệ
thông
tin
trong
công
tác
TKNV;
tổ
chức
tập
huấn,
bồi
dưỡng
về
công
tác
TKNV,
các
phần
mềm
TK,
truyền
số
liệu
cho
đội
ngũ
cán
bộ
làm
công
tác
TKNV
trong
ngành;
tiến
hành
kiểm
tra
và
rút
kinh
nghiệm
trong
thực
hiện
công
tác
TKNV.
Các
VKSND
huyện
thành
phố,
Phòng
nghiệp
vụ
phối
hợp
chặt
chẽ
với
đơn
vị
chuyên
trách
về
công
tác
TKNV
VKSND
tỉnh
để
tổ
chức
thực
hiện
có
hiệu
quả,
chất
lượng
công
tác
này
trong
cơ
quan,
đơn
vị
mình.
-
Cán
bộ
được
phân
công
nhiệm
vụ
làm
công
tác
TKNV
phải
nâng
cao
ý
thức
trách
nhiệm,
tận
tụy
với
công
việc
được
giao;
nghiên
cứu
kỹ
và
nắm
vững
các
quy
định
cũng
như
hướng
dẫn
về
công
tác
TKNV;
tăng
cường
ứng
dụng
công
nghệ
thông
tin
trong
việc
quản
lý,
theo
dõi
kết
quả
thụ
lý,
giải
quyết
các
vụ
việc
trong
các
khâu
công
tác;
mở,
cập
nhật
đầy
đủ,
kịp
thời,
khoa
học
các
chỉ
tiêu
trong
hệ
thống
sổ
sách
để
phục
vụ
tốt
việc
tổng
hợp,
xây
dựng
báo
cáo
TK;
thận
trọng,
tỷ
mỷ
trong
việc
đối
chiếu
số
liệu
các
chỉ
tiêu
TK
với
các
cơ
quan
hữu
quan
và
xây
dựng
TK,
thực
hiện
chế
độ
báo
cáo
đúng
thời
gian
quy
định.
Kiểm
sát
viên
kiểm
sát
việc
giải
quyết
các
vụ
án
hình
sự,
vụ,
việc
dân
sự,
hôn
nhân
gia
đình…
hoặc
cán
bộ
được
phân
công
thực
hiện
việc
nhập
thông
tin
trên
phần
mềm
Quản
lý
và
TK
án
hình
sự,
phần
mềm
Quản
lý
và
TK
án
dân
sự
ngay
sau
khi
có
phát
sinh
các
lệnh,
quyết
định
tố
tụng,
thông
báo
thụ
lý
cho
đến
khi
kết
thúc
kiểm
sát
việc
giải
quyết;
việc
nhập
dữ
liệu
các
vụ
án,
bị
can,
bị
cáo,
đương
sự…
phải
đầy
đủ
các
thông
tin,
các
chỉ
tiêu
trong
từng
giai
đoạn
trên
các
phần
mềm
nhằm
đảm
bảo
cho
việc
quản
lý,
tổng
hợp,
khai
thác
các
loại
số
liệu
thống
kê
trên
các
phần
mềm
được
kịp
thời,
đầy
đủ
và
chính
xác.
Trong
phạm
vi
bài
viết,
dưới
góc
độ
cá
nhân,
tôi
xin
mạnh
dạn
đề
xuất
một
số
nội
dung
sau:
-
Đề
nghị
Liên
ngành
tư
pháp
Trung
ương
có
quy
định
thống
nhất
giữa
các
ngành
về
thời
điểm
lấy
số
liệu
TK;
cách
tính
một
số
chỉ
tiêu
như
án
trả
hồ
sơ,
tạm
đình
chỉ…
tăng
cường
công
tác
tập
huấn,
hướng
dẫn
chuyên
sâu
về
công
tác
TKNV
để
cán
bộ
TK
các
cơ
quan
tư
pháp
cấp
tỉnh
tập
huấn,
hướng
dẫn
cho
cán
bộ
làm
công
tác
TK
các
đơn
vị
thuộc
ngành
mình.
-
Đề
nghị
VKSND
tối
cao
tiếp
tục
hoàn
thiện
các
phần
mềm
TKNV
với
đầy
đủ
hệ
thống
các
biểu
mẫu,
chỉ
tiêu
TK
nhằm
tiếp
tục
nâng
cao
chất
lượng
của
công
tác
này.
-
Đề
nghị
có
chính
sách
quy
định
cụ
thể
về
chế
độ
đãi
ngộ
đối
với
cán
bộ
làm
công
tác
TKNV
nhằm
động
viên
giúp
họ
giảm
bớt
khó
khăn
trong
cuộc
sống
và
nâng
cao
nhiệt
tình,
trách
nhiệm
trong
thực
hiện
nhiệm
vụ
công
tác
TK.
Hoàng
Đức
Quế