Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu - Trao đổi nghiệp vụ » Kiểm Sát Viên viết

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG - Đã xem: 9794

   Thi hành án treo, cần có chế tài để bảo đảm hiệu quả công tác thi hành án.


Thứ năm - 05/05/2016 09:33

          Để bảo đảm các quy định của pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự được hoàn thiện, đồng bộ, có tính khả thi cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong xu thế toàn cầu hóa về mọi mặt của đời sống xã hội giai đoạn hiện nay; qua thực tiễn công tác kiểm sát việc thi hành án hình sự, chúng tôi nhận thấy còn một số khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý, giải quyết đối với trường hợp người chấp hành thời gian thử thách của án treo cố ý không thực hiện nghĩa vụ thi hành án (sau đây gọi tắt là bị án) cần được giải quyết để các bạn cùng nghiên cứu, trao đổi cụ thể như sau:

          I- Những vấn đề cơ bản về án treo:

          1- Án treo không phải là hình phạt:


         Trong hệ thống các hình phạt được quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009, sau đây gọi tắt là BLHS năm 1999); Điều 32, 33 Bộ luật hình sự năm 2015 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015) thì không có quy định về chế tài án treo, bởi vì án treo không phải là hình phạt mà là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù.

          2- Điều kiện để người bị kết án phạt tù được hưởng án treo

          Thứ nhất: Bị xử phạt tù không quá 3 năm tù về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng theo phân loại tội phạm quy định tại khoản 3 Điều 8 của BLHS 1999, 2015;

          Thứ hai: Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, công tác; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật.

          - Trường hợp người phạm tội có án tích nhưng đã được xóa án tích, được đương nhiên xóa án tích thì coi là chưa bị kết án; đã bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật thì được coi là chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, nhưng không phải là có nhân thân tốt; Việc cho hưởng án treo đối với những trường hợp này phải hết sức chặt chẽ và chỉ áp dụng khi thuộc một trong các trường hợp sau:

          + Người bị kết án từ trên 3 năm tù đến 15 năm tù về tội do cố ý (kể cả trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều tội hoặc nhiều bản án) mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;

          + Người bị kết án đến 3 năm tù về tội do cố ý mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;

          + Người bị kết án về các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;

          + Người bị kết án về các tội do vô ý mà đã được xóa án tích;

          + Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;

          + Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc một lần và có nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;

          + Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng;

          + Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng;

          + Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật về hành vi có cùng tính chất với hành vi phạm tội lần này mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;

          + Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 6 tháng;

          + Người đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính;

          Thứ ba: Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng. Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú. Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống, là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú theo Điều 1 Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2013). Nghĩa là nơi người được hưởng án treo có gia đình, hộ khẩu, có tài sản và thường xuyên sinh sống, làm việc. Hay nói cách khác, đây chính là nơi mà người được hưởng án treo phải thực hiện quá trình chấp hành thời gian thử thách của án treo, đồng thời cũng là nơi cư trú mà bản án tuyên giao bị cáo được hưởng án treo cho chính quyền địa phương để quản lý, giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

          Thứ tư: Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 2009; khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 2009; khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

          Trong đó, những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 2009; khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 là những tình tiết được vận dụng theo hướng dẫn tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999”;

          Thứ năm: Có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về tham nhũng. Đây là một căn cứ quan trọng, xuất phát từ sự nhận định, đánh giá từ phía cơ quan tiến hành tố tụng (Tòa án, Viện kiểm sát) thông qua việc chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; được coi là yếu tố tâm lý thể hiện sự ăn năn, hối lỗi của người phạm tội đối với hậu quả của tội phạm.

          Thứ sáu: Khi cho người bị xử phạt tù hưởng án treo, Toà án phải ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới 1 năm và không được quá 5 năm.

            3- Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo:

          Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo; đối với những trường hợp bản án bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm nhưng cho hưởng án treo được giải quyết như sau: Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm. Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm. Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm. Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm bị huỷ để điều tra lại và sau đó xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần sau.

          Như vậy, về bản chất án treo không phải là hình phạt mà là một biện pháp tư pháp nhằm thực hiện mục đích của hình phạt dưới hình thức cải tạo đặc biệt có điều kiện, buộc người bị kết án được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt, bản thân phải chịu trách nhiệm hình sự (đối với tội danh mà họ đã phạm) tại cộng đồng nơi cư trú, với thời gian thử thách gấp đôi thời hạn tù có thời hạn mà Bản án đã tuyên (từ 1 năm đến 5 năm). Sự ưu việt của án treo thể hiện ở chỗ người phạm tội thấy được tính nhân văn, nhân đạo của Nhà nước của pháp luật cũng như xã hội đối với những người ăn năn hối cải; từ đó tạo niềm tin cho họ quyết tâm sửa chữa lỗi lầm, khơi gợi tính tích cực, tự giác chấp hành án, đồng thời giảm tải cho công tác giáo dục, cải tạo tập trung trại Trại giam cũng như thuận lợi trong công tác tái hòa nhập cộng đồng sau khi họ chấp hành án xong.

          II- Thực trạng quản lý, thi hành án treo:

          Thực tiễn cho thấy người được hưởng án treo thường có tâm lý chung là không phải đi chấp hành hình phạt tù (do không phải đi tập trung cải tạo tại Trại giam), được làm việc, lao động sản xuất tự do ở nhà, nên không ít người còn coi án treo không phải là bị kết án hoặc biết bản thân đang phải chấp hành án treo nhưng có thái độ chống đối, bất cần, coi thường pháp luật hoặc chây ỳ, cố tình trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ chấp hành án, dẫn đến tình trạng án treo chỉ tồn tại trên giấy tờ, hồ sơ mà không có giá trị, hiệu lực, hiệu quả trên thực tế, không có giá trị cải tạo đối với người phạm tội, cụ thể như sau:

          Trường hợp thứ nhất: Sau khi Tòa án tuyên án cho hưởng án treo, bị cáo bỏ đi đâu không rõ, không trở về địa phương nơi cư trú (như đã nêu trong bản án); Tòa án ra Quyết định thi hành án treo (sau đây gọi tắt là QĐTHA treo) nhưng không tống đạt (giao nhận) được QĐTHA cho bị án; về phía gia đình và chính quyền địa phương cũng không biết bị án đang làm gì, ở đâu. Sau khi TAND nơi ra quyết định THA chuyển hồ sơ THA án treo cho Cơ quan Thi hành án hình sự cấp huyện (sau đây gọi tắt là CQTHAHS cấp huyện) nơi bị án cư trú cũng không giao được cho bị án nên QĐTHA treo đó vẫn “treo” trong hồ sơ tại CQTHAHS cấp huyện.

          Trường hợp thứ hai: Trong quá trình chấp hành án treo, bị án tự ý bỏ đi khỏi địa phương nơi cư trú hoặc có xin phép chính quyền địa phương đi vắng mặt tại địa phương nhưng sau đó bỏ trốn không trở về gia đình và nơi cư trú nữa; về phía gia đình và chính quyền địa phương cũng không biết bị án đang làm gì, ở đâu, do đó hồ sơ thi hành án treo do UBND cấp xã quản lý lại bị “treo” không thể tiếp tục thi hành được.

          Trường hợp thứ ba: Trong quá trình chấp hành án treo, bị án cố ý nhiều lần (từ hai lần trở lên) vi phạm nghĩa vụ chấp hành án quy định tại Điều 64 Luật THAHS, đã được UBND cấp xã, người được phân công giám sát giáo dục, nhắc nhở nhưng bị án vẫn tiếp tục không chấp hành nghĩa vụ thi hành án như: Chống đối cán bộ giám sát giáo dục, không viết, không nộp bản tự nhận xét, không có mặt ở cuộc họp kiểm điểm tại cộng đồng dân cư nơi người được hưởng án treo cư trú, không chấp hành các quy định của địa phương nơi cư trú, không thực hiện  QĐ xử phạt vi phạm hành chính…. hoặc có hành vi trộm cắp vặt, đánh bạc, sử dụng ma túy... nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự…

          Trường hợp thứ tư: Sau khi hết thời gian thử thách của án treo (sau đây gọi tắt là TGTT của án treo) nhưng bị án không đến CQTHAHS cấp huyện nhận Giấy chứng nhận chấp hành xong thời gian thử thách của án treo (sau đây gọi tắt là GCNCHXTGTT), dẫn đến GCNCHXTGTT của án treo vẫn tiếp tục “treo” trong hồ sơ thi hành án hình sự tại CQTHAHS cấp huyện; chỉ khi nào người đã chấp hành xong TGTT cần xác nhận về  nhân thân, lý lịch, tiền án để giải quyết công việc có liên quan đến lý lịch tư pháp cá nhân thì họ mới đến nhận GCNCHXTGTT.

          Hiện tại pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự chưa có quy định chế tài pháp lý nào áp dụng đối với bị án chấp hành án treo thuộc các trường hợp nêu trên để xử lý, dẫn đến vướng mắc. Bên cạnh đó còn có  bất cập về căn cứ pháp luật cũng như chưa có sự thống nhất về nhận thức áp dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ; chưa có sự thống nhất trong việc cấp GCNCHXTGTT của án treo đối với trường hợp bị án bỏ trốn hoặc vi phạm nghĩa vụ chấp hành án nhưng TGTT của án treo đã hết.

          III- Một số quan điểm về việc thi hành án treo:

          Quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy vấn đề này có hai quan điểm, đó là:

          1- Quan điểm thứ nhất: Án treo không phải là hình phạt nhưng xét về bản chất của án treo cũng chính là biện pháp nhằm thực hiện, cụ thể hóa trách nhiệm hình sự của hình phạt tù có thời hạn đối với bị án vì thế tiêu chí “tự giác chấp hành án” được coi là “điều kiện” cốt lõi để xác định mục đích, kết quả của hình phạt tù cho hưởng án treo có được thực hiện trên thực tế hay không. Đồng thời  phải nghiêm chỉnh tuân theo nguyên tắc trong THAHS quy định tại Điều 4 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (sau đây gọi tắt là Luật THAHS): Nếu bị án không “tự giác chấp hành án” thì không đủ điều kiện tiếp tục được hưởng án treo; bị án chết thì phải đình chỉ thi hành án; bị án bỏ trốn thì phải truy nã thi hành án hoặc chống đối, vi phạm nghĩa vụ thi hành án (Điều 64, Điều 75 Luật THAHS) phải bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc chuyển án treo thành án tù có thời hạn như đối với trường hợp phạm tội mới trong thời gian thử thách. Thời gian bị án bỏ trốn hoặc vi phạm nghĩa vụ chấp hành án không được tính vào thời gian được coi là chấp hành án và không được xét rút ngắn thời gian thử thách theo quy định, có như vậy mới bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm mục đích của hình phạt, nguyên tắc trong thi hành án hình sự và nguyên tắc pháp chế thống nhất, bảo đảm tính dân chủ, công bằng theo tinh thần của Điều 16  Hiến pháp năm 2013 “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Do đó, mặc dù thời gian thử thách của án treo đối với bị án đã hết nhưng tạm thời chưa cấp  GCNCHXTGTT cho người được hưởng án treo, có như vậy mới đáp ứng với thực tiễn và lý luận trong đấu tranh phòng chống tội phạm.

          2- Quan điểm thứ hai: Xuất phát từ tính nhân đạo của pháp luật XHCN về án treo và nguyên tắc có lợi cho người chấp hành án quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 7 BLHS năm 1999, 2015, khoản 3 Điều 4 Luật THAHS thì mặc dù bị án không tự giác chấp hành TGTT của án treo theo quy định nhưng trong thời gian đó không có căn cứ chứng minh họ phạm tội mới hoặc bị chết, xét về góc độ pháp lý để đánh giá thì hành vi không tự giác chấp hành án treo đó cũng chỉ thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hậu quả và ảnh hưởng xảy ra không lớn… do vậy họ vẫn được coi là đã chấp hành xong thời gian thử thách (tuy nhiên sẽ không được xét rút ngắn thời gian thử thách) và vẫn được cấp GCNCHXTGTT theo quy định tại khoản 3 Điều 62 Luật THAHS.

          Tác giả bài viết cho rằng: Nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách minh bạch, công bằng và đầy đủ, bảo đảm thực hiện các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp năm 2014 như: Nguyên tắc Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 3, Điều 14); Nguyên tắc  Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 16); Nguyên tắc có lợi, nhân đạo (Điều 7 BLHS năm 1999, 2015, khoản 3 Điều 4 Luật THAHS) thì  các quan điểm nêu trên đều có những điểm tích cực và hạn chế, bởi vì:

          Quan điểm thứ nhất có ưu điểm duy trì tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật nhưng dẫn đến tình trạng công tác THA treo sẽ bị kéo dài, hồ sơ THAHS không thể giải quyết dứt điểm được; việc cung cấp thông tin về Lý lịch tư pháp của người chấp hành án sau khi đã hết TGTT của án treo gặp nhiều khó khăn chưa được tháo gỡ.

          Quan điểm thứ hai có ưu điểm thể hiện tính nhân đạo, bảo đảm quyền con người và nguyên tắc có lợi cho người chấp hành án, giải quyết dứt điểm công tác THA treo nhưng lại thiếu tính minh bạch, công bằng trước pháp luật giữa chủ thể thi hành án phạt tù có thời hạn với chủ thể thi hành án treo; giữa bị án tự giác chấp hành án treo với những bị án cố ý vi phạm nghĩa vụ chấp hành án.

          Hiện tại do Luật và các văn bản dưới luật chưa quy định cụ thể chế tài đối với bị án chấp hành án treo có hành vi vi phạm nghĩa vụ chấp hành án thì cần vận dụng nguyên tắc chủ đạo đó là “nguyên tắc có lợi” cho người phải chấp hành án treo nhằm đề cao các giá trị về quyền con người, do đó họ vẫn được coi là đã chấp hành án xong thời gian thử thách của án treo và phải được cấp GCNCHXTGTT theo khoản 3 Điều 62  Luật THAHS….Tuy nhiên về lâu dài, cũng cần phải có chế tài pháp lý cụ thể, minh bạch và nghiêm khắc nhằm bảo đảm tính công bằng, bình đẳng trong Nhà nước pháp quyền; bất cứ bị án nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ chấp hành án đều phải chịu trách nhiệm pháp lý theo đúng quy định của pháp luật.

          IV- Một số giải pháp:

          Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả bài viết đề xuất những giải pháp cụ thể sau:

          1- Giải pháp bảo đảm việc giao nhận được QĐTHA treo cho bị án:

          - Khi áp dụng cho bị cáo được hưởng án treo theo Điều 60 BLHS năm 1999, Điều 65 BLHS năm 2015; khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao thì cần quy định bổ sung thêm các căn cứ khác được coi là “điều kiện cho hưởng án treo” (không phải là hình phạt bổ sung) như: Cam kết tự giác chấp hành án; có bảo lãnh của người thân thích trong gia đình hoặc chính quyền địa phương nơi cư trú hoặc đơn vị, tổ chức nơi làm việc; hoặc phải đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo tương ứng với thời gian thử thách của án treo; hoặc quy định rõ:“ nếu bị cáo không tự giác chấp hành thời gian thử thách của án treo hoặc vi phạm các quy định về thi hành án treo sẽ không được hưởng án treo” nhằm ràng buộc họ phải đến nhận và tự giác thi hành QĐTHA treo một cách nghiêm chỉnh và đúng thời gian quy định.

          - Đối với trường hợp bị án cố tình trốn tránh không đến nhận QĐTHA treo thì CQTHAHS cấp huyện tiến hành “áp giải thi hành án” như đối với trường hợp thi hành án phạt tù có thời hạn quy định tại khoản 4 Điều 22 Luật THAHS.

          2- Giải pháp bảo đảm bị án chấp hành nghiêm chỉnh thời gian thử thách của án treo:

          - Nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương (UBND cấp xã) trong việc quản lý, giám sát, giáo dục đối với người chấp hành án treo. Tăng cường công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành hình sự (trong đó có thi hành án treo) đối với người vi phạm nghĩa vụ chấp hành án; cần bổ sung quy định của UBND cấp xã, cơ quan THAHS cấp huyện về quyền và trách nhiệm đề nghị Tòa án ra quyết định “kéo dài thời gian thử thách” đối với bị án đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà tiếp tục vi phạm.

          - Áp dụng các quy định về “áp giải thi hành án”, “truy nã thi hành án”, “đình chỉ thi hành án” đối với người chấp hành án treo khi họ cố ý trốn tránh thi hành án hoặc đã chết trong thời gian chấp hành án.

          - Đề nghị các cấp có thẩm quyền sớm sửa đổi luật hoặc hướng dẫn pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự cho phù hợp theo hướng:  Quy định cụ thể chế tài xử lý như “kéo dài thời gian thử thách” hoặc “chuyển từ án treo thành án tù có thời hạn” buộc người chấp hành án treo có vi phạm nghĩa vụ chấp hành án phải vào Trại giam để chấp hành án nhằm bảo đảm mục đích của hình phạt quy định tại Điều 27 BLHS năm 2009; Điều 31 BLHS năm 2015; bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định thi hành án của Tòa án; đồng thời bảo đảm nguyên tắc trong thi hành án hình sự theo Điều 4 Luật THAHS cho phù hợp với thực tế cuộc sống, bảo đảm quyền con người, tính dân chủ, công bằng và nguyên tắc pháp chế thống nhất.

          Để bảo đảm thời gian thử thách của án treo được thi hành trên thực tế cần dựa vào tính chất và mức độ vi phạm nghĩa vụ chấp hành án cụ thể để xử lý như  sau:

          Thứ nhất: Nếu vi phạm lần thứ nhất thì người giám sát, giáo dục nhắc nhở và ghi trong bản nhận xét đánh giá; nếu vi phạm lần thứ hai thì phải tiến hành kiểm điểm, giáo dục tại cộng đồng nơi cư trú.

          Thứ hai: Nếu vi phạm lần thứ ba thì phải xử phạt vi phạm hành chính.

          Thứ ba: Nếu đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn tiếp tục vi phạm lần thứ tư thì  UBND cấp xã, cơ quan THAHS cấp huyện có quyền và trách nhiệm đề nghị Tòa án ra quyết định “kéo dài thời gian thử thách” đối với bị án.

          Thứ tư: Nếu đã bị kéo dài thời gian thử thách mà còn tiếp tục vi phạm lần thứ năm thì UBND cấp xã, cơ quan THAHS cấp huyện đề nghị Tòa án ra quyết định THA chuyển từ án treo thành án tù có thời hạn, tương tự như trường hợp phạm tội mới trong thời gian thử thách.

          - Đối với cơ quan quản lý thi hành án, chính quyền địa phương theo dõi, giám sát giáo dục người chấp hành án treo cần chủ động xem xét những bị án đã tự giác chấp hành tốt, có đủ điều kiện thì lập hồ sơ, có văn bản đề nghị xem xét rút ngắn thời gian thử thách án treo cho bị án theo khoản 4 Điều 60 BLHS năm 1999; khoản 4 Điều 65 BLHS năm 2015; Điều 66 Luật THAHS, qua đó nâng cao nhận thức pháp luật của bị án về án treo, đồng thời khuyến khích họ tự giác chấp hành án.

          Trong giới hạn của bài viết, tác giả rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của bạn đọc để góp phần phong phú thêm những vấn đề về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát thi hành án hình sự.

 
                                                           Lưu Tiến Độ    
Tổng số điểm của bài viết là: 38 trong 9 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Scroll to top