Để
bảo
đảm
các
quy
định
của
pháp
luật
về
hình
sự,
tố
tụng
hình
sự,
thi
hành
án
hình
sự
được
hoàn
thiện,
đồng
bộ,
có
tính
khả
thi
cao,
đáp
ứng
ngày
càng
tốt
hơn
yêu
cầu
đấu
tranh
phòng
chống
tội
phạm
trong
xu
thế
toàn
cầu
hóa
về
mọi
mặt
của
đời
sống
xã
hội
giai
đoạn
hiện
nay;
qua
thực
tiễn
công
tác
kiểm
sát
việc
thi
hành
án
hình
sự,
chúng
tôi
nhận
thấy
còn
một
số
khó
khăn,
vướng
mắc
trong
việc
xử
lý,
giải
quyết
đối
với
trường
hợp
người
chấp
hành
thời
gian
thử
thách
của
án
treo
cố
ý
không
thực
hiện
nghĩa
vụ
thi
hành
án
(sau
đây
gọi
tắt
là
bị
án)
cần
được
giải
quyết
để
các
bạn
cùng
nghiên
cứu,
trao
đổi
cụ
thể
như
sau:
I-
Những
vấn
đề
cơ
bản
về
án
treo:
1-
Án
treo
không
phải
là
hình
phạt:
Trong
hệ
thống
các
hình
phạt
được
quy
định
tại
Điều
28
Bộ
luật
hình
sự
năm
1999
(sửa
đổi
bổ
sung
năm
2009,
sau
đây
gọi
tắt
là
BLHS
năm
1999);
Điều
32,
33
Bộ
luật
hình
sự
năm
2015
(sau
đây
gọi
tắt
là
BLHS
năm
2015)
thì
không
có
quy
định
về
chế
tài
án
treo,
bởi
vì
án
treo
không
phải
là
hình
phạt
mà
là
biện
pháp
miễn
chấp
hành
hình
phạt
tù
có
điều
kiện,
được
Tòa
án
áp
dụng
đối
với
người
phạm
tội
bị
phạt
tù
không
quá
3
năm,
căn
cứ
vào
nhân
thân
của
người
phạm
tội
và
các
tình
tiết
giảm
nhẹ,
xét
thấy
không
cần
buộc
phải
chấp
hành
hình
phạt
tù.
2-
Điều
kiện
để
người
bị
kết
án
phạt
tù
được
hưởng
án
treo
Thứ
nhất:
Bị
xử
phạt
tù
không
quá
3
năm
tù
về
tội
ít
nghiêm
trọng,
tội
nghiêm
trọng,
tội
rất
nghiêm
trọng
theo
phân
loại
tội
phạm
quy
định
tại
khoản
3
Điều
8
của
BLHS
1999,
2015;
Thứ
hai:
Có
nhân
thân
tốt
được
chứng
minh
là
ngoài
lần
phạm
tội
này
họ
luôn
tôn
trọng
các
quy
tắc
xã
hội,
chấp
hành
đúng
chính
sách,
pháp
luật,
thực
hiện
đầy
đủ
nghĩa
vụ
của
công
dân
nơi
cư
trú,
công
tác;
không
vi
phạm
các
điều
mà
pháp
luật
cấm;
chưa
bao
giờ
bị
kết
án,
bị
xử
lý
vi
phạm
hành
chính,
bị
xử
lý
kỷ
luật.
-
Trường
hợp
người
phạm
tội
có
án
tích
nhưng
đã
được
xóa
án
tích,
được
đương
nhiên
xóa
án
tích
thì
coi
là
chưa
bị
kết
án;
đã
bị
xử
lý
hành
chính,
xử
lý
kỷ
luật
nhưng
đã
hết
thời
hạn
được
coi
là
chưa
bị
xử
lý
vi
phạm
hành
chính,
xử
lý
kỷ
luật
hoặc
hết
thời
hiệu
xử
lý
vi
phạm
hành
chính,
xử
lý
kỷ
luật
thì
được
coi
là
chưa
bị
xử
lý
hành
chính,
chưa
bị
xử
lý
kỷ
luật,
nhưng
không
phải
là
có
nhân
thân
tốt;
Việc
cho
hưởng
án
treo
đối
với
những
trường
hợp
này
phải
hết
sức
chặt
chẽ
và
chỉ
áp
dụng
khi
thuộc
một
trong
các
trường
hợp
sau:
+
Người
bị
kết
án
từ
trên
3
năm
tù
đến
15
năm
tù
về
tội
do
cố
ý
(kể
cả
trường
hợp
tổng
hợp
hình
phạt
của
nhiều
tội
hoặc
nhiều
bản
án)
mà
thời
gian
được
xóa
án
tích
tính
đến
ngày
phạm
tội
lần
này
đã
quá
2
năm;
+
Người
bị
kết
án
đến
3
năm
tù
về
tội
do
cố
ý
mà
thời
gian
được
xóa
án
tích
tính
đến
ngày
phạm
tội
lần
này
đã
quá
1
năm;
+
Người
bị
kết
án
về
các
hình
phạt
cảnh
cáo,
phạt
tiền,
cải
tạo
không
giam
giữ
mà
thời
gian
được
xóa
án
tích
tính
đến
ngày
phạm
tội
lần
này
đã
quá
1
năm;
+
Người
bị
kết
án
về
các
tội
do
vô
ý
mà
đã
được
xóa
án
tích;
+
Người
đã
bị
đưa
vào
cơ
sở
giáo
dục
bắt
buộc
từ
hai
lần
trở
lên
mà
thời
gian
được
coi
là
chưa
bị
áp
dụng
biện
pháp
xử
lý
hành
chính
tính
đến
ngày
phạm
tội
lần
này
đã
quá
2
năm;
+
Người
đã
bị
đưa
vào
cơ
sở
giáo
dục
bắt
buộc
một
lần
và
có
nhiều
lần
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
hoặc
xử
lý
kỷ
luật
mà
thời
gian
được
coi
là
chưa
bị
áp
dụng
biện
pháp
xử
lý
hành
chính,
chưa
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính,
chưa
bị
xử
lý
kỷ
luật
tính
đến
ngày
phạm
tội
lần
này
đã
quá
2
năm;
+
Người
đã
bị
đưa
vào
cơ
sở
giáo
dục
bắt
buộc
mà
thời
gian
được
coi
là
chưa
bị
áp
dụng
biện
pháp
xử
lý
hành
chính
tính
đến
ngày
phạm
tội
lần
này
đã
quá
18
tháng;
+
Người
đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
hoặc
xử
lý
kỷ
luật
từ
hai
lần
trở
lên
mà
thời
gian
được
coi
là
chưa
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính,
chưa
bị
xử
lý
kỷ
luật
tính
đến
ngày
phạm
tội
lần
này
đã
quá
18
tháng;
+
Người
đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
hoặc
xử
lý
kỷ
luật
về
hành
vi
có
cùng
tính
chất
với
hành
vi
phạm
tội
lần
này
mà
thời
gian
được
coi
là
chưa
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính,
chưa
bị
xử
lý
kỷ
luật
tính
đến
ngày
phạm
tội
lần
này
đã
quá
1
năm;
+
Người
đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
hoặc
xử
lý
kỷ
luật
mà
thời
gian
được
coi
là
chưa
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính,
chưa
bị
xử
lý
kỷ
luật
tính
đến
ngày
phạm
tội
lần
này
đã
quá
6
tháng;
+
Người
đã
bị
áp
dụng
biện
pháp
xử
lý
hành
chính
giáo
dục
tại
xã,
phường,
thị
trấn,
đưa
vào
trường
giáo
dưỡng
hoặc
đưa
vào
cơ
sở
cai
nghiện
bắt
buộc
đã
hết
thời
hạn
được
coi
là
chưa
bị
xử
lý
hành
chính;
Thứ
ba:
Có
nơi
cư
trú
cụ
thể,
rõ
ràng.
Cư
trú
là
việc
công
dân
sinh
sống
tại
một
địa
điểm
thuộc
xã,
phường,
thị
trấn
dưới
hình
thức
thường
trú
hoặc
tạm
trú.
Nơi
cư
trú
của
công
dân
là
chỗ
ở
hợp
pháp
mà
người
đó
thường
xuyên
sinh
sống,
là
nơi
thường
trú
hoặc
nơi
tạm
trú
theo
Điều
1
Luật
Cư
trú
năm
2006
(sửa
đổi
bổ
sung
năm
2013). Nghĩa
là
nơi
người
được
hưởng
án
treo
có
gia
đình,
hộ
khẩu,
có
tài
sản
và
thường
xuyên
sinh
sống,
làm
việc.
Hay
nói
cách
khác,
đây
chính
là
nơi
mà
người
được
hưởng
án
treo
phải
thực
hiện
quá
trình
chấp
hành
thời
gian
thử
thách
của
án
treo,
đồng
thời
cũng
là
nơi
cư
trú
mà
bản
án
tuyên
giao
bị
cáo
được
hưởng
án
treo
cho
chính
quyền
địa
phương
để
quản
lý,
giám
sát
và
giáo
dục
trong
thời
gian
thử
thách.
Thứ
tư:
Không
có
tình
tiết
tăng
nặng
trách
nhiệm
hình
sự
và
có
từ
hai
tình
tiết
giảm
nhẹ
trách
nhiệm
hình
sự
trở
lên
trong
đó
có
ít
nhất
một
tình
tiết
giảm
nhẹ
quy
định
tại
khoản
1
Điều
46
BLHS
năm
2009;
khoản
1
Điều
51
BLHS
năm
2015.
Nếu
có
một
tình
tiết
tăng
nặng
trách
nhiệm
hình
sự
thì
phải
có
từ
ba
tình
tiết
giảm
nhẹ
trách
nhiệm
hình
sự
trở
lên,
trong
đó
có
ít
nhất
hai
tình
tiết
giảm
nhẹ
quy
định
tại
khoản
1
Điều
46
BLHS
năm
2009;
khoản
1
Điều
51
BLHS
năm
2015.
Trong
đó,
những
tình
tiết
giảm
nhẹ
theo
quy
định
tại
khoản
2
Điều
46
BLHS
năm
2009;
khoản
2
Điều
51
BLHS
năm
2015
là
những
tình
tiết
được
vận
dụng
theo
hướng
dẫn
tại
điểm
c
mục
5
Nghị
quyết
số
01/2000/NQ-HĐTP
ngày
04-8-2000
của
Hội
đồng
Thẩm
phán
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao
“Hướng
dẫn
áp
dụng
một
số
quy
định
trong
Phần
chung
của
Bộ
luật
hình
sự
năm
1999”;
Thứ
năm:
Có
khả
năng
tự
cải
tạo
và
nếu
không
bắt
họ
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
thì
không
gây
ảnh
hưởng
xấu
đến
cuộc
đấu
tranh
phòng,
chống
tội
phạm,
đặc
biệt
là
các
tội
phạm
về
tham
nhũng.
Đây
là
một
căn
cứ
quan
trọng,
xuất
phát
từ
sự
nhận
định,
đánh
giá
từ
phía
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
(Tòa
án,
Viện
kiểm
sát)
thông
qua
việc
chấp
hành
pháp
luật
của
bị
can,
bị
cáo
trong
quá
trình
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử;
được
coi
là
yếu
tố
tâm
lý
thể
hiện
sự
ăn
năn,
hối
lỗi
của
người
phạm
tội
đối
với
hậu
quả
của
tội
phạm.
Thứ
sáu:
Khi
cho
người
bị
xử
phạt
tù
hưởng
án
treo,
Toà
án
phải
ấn
định
thời
gian
thử
thách
bằng
hai
lần
mức
hình
phạt
tù,
nhưng
không
được
dưới
1
năm
và
không
được
quá
5
năm.
3-
Thời
điểm
bắt
đầu
tính
thời
gian
thử
thách
của
án
treo:
Thời
điểm
bắt
đầu
tính
thời
gian
thử
thách
là
ngày
tuyên
án
đầu
tiên
cho
hưởng
án
treo;
đối
với
những
trường
hợp
bản
án
bị
kháng
cáo,
kháng
nghị
theo
trình
tự
phúc
thẩm,
giám
đốc
thẩm
nhưng
cho
hưởng
án
treo
được
giải
quyết
như
sau:
Trường
hợp
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
cho
hưởng
án
treo,
bản
án
không
bị
kháng
cáo,
kháng
nghị
theo
thủ
tục
phúc
thẩm
thì
thời
điểm
bắt
đầu
tính
thời
gian
thử
thách
là
ngày
tuyên
án
sơ
thẩm.
Trường
hợp
Toà
án
cấp
sơ
thẩm
cho
hưởng
án
treo,
Toà
án
cấp
phúc
thẩm
cũng
cho
hưởng
án
treo
thì
thời
điểm
bắt
đầu
tính
thời
gian
thử
thách
là
ngày
tuyên
án
sơ
thẩm.
Trường
hợp
Toà
án
cấp
sơ
thẩm
không
cho
hưởng
án
treo,
Toà
án
cấp
phúc
thẩm
cho
hưởng
án
treo
thì
thời
điểm
bắt
đầu
tính
thời
gian
thử
thách
là
ngày
tuyên
án
phúc
thẩm.
Trường
hợp
Toà
án
cấp
sơ
thẩm
cho
hưởng
án
treo,
Toà
án
cấp
phúc
thẩm
không
cho
hưởng
án
treo,
nhưng
Toà
án
cấp
giám
đốc
thẩm
huỷ
bản
án
phúc
thẩm
để
xét
xử
phúc
thẩm
lại
và
Toà
án
cấp
phúc
thẩm
cho
hưởng
án
treo
thì
thời
gian
thử
thách
tính
từ
ngày
tuyên
án
sơ
thẩm.
Trường
hợp
Toà
án
cấp
sơ
thẩm,
Toà
án
cấp
phúc
thẩm
cho
hưởng
án
treo,
nhưng
bản
án
sơ
thẩm,
bản
án
phúc
thẩm
bị
huỷ
để
điều
tra
lại
và
sau
đó
xét
xử
sơ
thẩm
lại,
xét
xử
phúc
thẩm
lại,
Toà
án
cấp
sơ
thẩm,
Toà
án
cấp
phúc
thẩm
vẫn
cho
hưởng
án
treo
thì
thời
gian
thử
thách
tính
từ
ngày
tuyên
án
sơ
thẩm
hoặc
tuyên
án
phúc
thẩm
lần
sau.
Như
vậy,
về
bản
chất
án
treo
không
phải
là
hình
phạt
mà
là
một
biện
pháp
tư
pháp
nhằm
thực
hiện
mục
đích
của
hình
phạt
dưới
hình
thức
cải
tạo
đặc
biệt
có
điều
kiện,
buộc
người
bị
kết
án
được
hưởng
án
treo
phải
chấp
hành
hình
phạt,
bản
thân
phải
chịu
trách
nhiệm
hình
sự
(đối
với
tội
danh
mà
họ
đã
phạm)
tại
cộng
đồng
nơi
cư
trú,
với
thời
gian
thử
thách
gấp
đôi
thời
hạn
tù
có
thời
hạn
mà
Bản
án
đã
tuyên
(từ
1
năm
đến
5
năm).
Sự
ưu
việt
của
án
treo
thể
hiện
ở
chỗ
người
phạm
tội
thấy
được
tính
nhân
văn,
nhân
đạo
của
Nhà
nước
của
pháp
luật
cũng
như
xã
hội
đối
với
những
người
ăn
năn
hối
cải;
từ
đó
tạo
niềm
tin
cho
họ
quyết
tâm
sửa
chữa
lỗi
lầm,
khơi
gợi
tính
tích
cực,
tự
giác
chấp
hành
án,
đồng
thời
giảm
tải
cho
công
tác
giáo
dục,
cải
tạo
tập
trung
trại
Trại
giam
cũng
như
thuận
lợi
trong
công
tác
tái
hòa
nhập
cộng
đồng
sau
khi
họ
chấp
hành
án
xong.
II-
Thực
trạng
quản
lý,
thi
hành
án
treo:
Thực
tiễn
cho
thấy
người
được
hưởng
án
treo
thường
có
tâm
lý
chung
là
không
phải
đi
chấp
hành
hình
phạt
tù
(do
không
phải
đi
tập
trung
cải
tạo
tại
Trại
giam),
được
làm
việc,
lao
động
sản
xuất
tự
do
ở
nhà,
nên
không
ít
người
còn
coi
án
treo
không
phải
là
bị
kết
án
hoặc
biết
bản
thân
đang
phải
chấp
hành
án
treo
nhưng
có
thái
độ
chống
đối,
bất
cần,
coi
thường
pháp
luật
hoặc
chây
ỳ,
cố
tình
trốn
tránh
không
thực
hiện
nghĩa
vụ
chấp
hành
án,
dẫn
đến
tình
trạng
án
treo
chỉ
tồn
tại
trên
giấy
tờ,
hồ
sơ
mà
không
có
giá
trị,
hiệu
lực,
hiệu
quả
trên
thực
tế,
không
có
giá
trị
cải
tạo
đối
với
người
phạm
tội,
cụ
thể
như
sau:
Trường
hợp
thứ
nhất:
Sau
khi
Tòa
án
tuyên
án
cho
hưởng
án
treo,
bị
cáo
bỏ
đi
đâu
không
rõ,
không
trở
về
địa
phương
nơi
cư
trú
(như
đã
nêu
trong
bản
án);
Tòa
án
ra
Quyết
định
thi
hành
án
treo
(sau
đây
gọi
tắt
là
QĐTHA
treo)
nhưng
không
tống
đạt
(giao
nhận)
được
QĐTHA
cho
bị
án;
về
phía
gia
đình
và
chính
quyền
địa
phương
cũng
không
biết
bị
án
đang
làm
gì,
ở
đâu.
Sau
khi
TAND
nơi
ra
quyết
định
THA
chuyển
hồ
sơ
THA
án
treo
cho
Cơ
quan
Thi
hành
án
hình
sự
cấp
huyện
(sau
đây
gọi
tắt
là
CQTHAHS
cấp
huyện)
nơi
bị
án
cư
trú
cũng
không
giao
được
cho
bị
án
nên
QĐTHA
treo
đó
vẫn
“treo”
trong
hồ
sơ
tại
CQTHAHS
cấp
huyện.
Trường
hợp
thứ
hai:
Trong
quá
trình
chấp
hành
án
treo,
bị
án
tự
ý
bỏ
đi
khỏi
địa
phương
nơi
cư
trú
hoặc
có
xin
phép
chính
quyền
địa
phương
đi
vắng
mặt
tại
địa
phương
nhưng
sau
đó
bỏ
trốn
không
trở
về
gia
đình
và
nơi
cư
trú
nữa;
về
phía
gia
đình
và
chính
quyền
địa
phương
cũng
không
biết
bị
án
đang
làm
gì,
ở
đâu,
do
đó
hồ
sơ
thi
hành
án
treo
do
UBND
cấp
xã
quản
lý
lại
bị
“treo”
không
thể
tiếp
tục
thi
hành
được.
Trường
hợp
thứ
ba:
Trong
quá
trình
chấp
hành
án
treo,
bị
án
cố
ý
nhiều
lần
(từ
hai
lần
trở
lên)
vi
phạm
nghĩa
vụ
chấp
hành
án
quy
định
tại
Điều
64
Luật
THAHS,
đã
được
UBND
cấp
xã,
người
được
phân
công
giám
sát
giáo
dục,
nhắc
nhở
nhưng
bị
án
vẫn
tiếp
tục
không
chấp
hành
nghĩa
vụ
thi
hành
án
như:
Chống
đối
cán
bộ
giám
sát
giáo
dục,
không
viết,
không
nộp
bản
tự
nhận
xét,
không
có
mặt
ở
cuộc
họp
kiểm
điểm
tại
cộng
đồng
dân
cư
nơi
người
được
hưởng
án
treo
cư
trú,
không
chấp
hành
các
quy
định
của
địa
phương
nơi
cư
trú,
không
thực
hiện
QĐ
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính….
hoặc
có
hành
vi
trộm
cắp
vặt,
đánh
bạc,
sử
dụng
ma
túy...
nhưng
chưa
đến
mức
truy
cứu
trách
nhiệm
hình
sự…
Trường
hợp
thứ
tư:
Sau
khi
hết
thời
gian
thử
thách
của
án
treo
(sau
đây
gọi
tắt
là
TGTT
của
án
treo)
nhưng
bị
án
không
đến
CQTHAHS
cấp
huyện
nhận
Giấy
chứng
nhận
chấp
hành
xong
thời
gian
thử
thách
của
án
treo
(sau
đây
gọi
tắt
là
GCNCHXTGTT),
dẫn
đến
GCNCHXTGTT
của
án
treo
vẫn
tiếp
tục
“treo”
trong
hồ
sơ
thi
hành
án
hình
sự
tại
CQTHAHS
cấp
huyện;
chỉ
khi
nào
người
đã
chấp
hành
xong
TGTT
cần
xác
nhận
về
nhân
thân,
lý
lịch,
tiền
án
để
giải
quyết
công
việc
có
liên
quan
đến
lý
lịch
tư
pháp
cá
nhân
thì
họ
mới
đến
nhận
GCNCHXTGTT.
Hiện
tại
pháp
luật
về
hình
sự,
tố
tụng
hình
sự,
thi
hành
án
hình
sự
chưa
có
quy
định
chế
tài
pháp
lý
nào
áp
dụng
đối
với
bị
án
chấp
hành
án
treo
thuộc
các
trường
hợp
nêu
trên
để
xử
lý,
dẫn
đến
vướng
mắc.
Bên
cạnh
đó
còn
có
bất
cập
về
căn
cứ
pháp
luật
cũng
như
chưa
có
sự
thống
nhất
về
nhận
thức
áp
dụng
pháp
luật
của
đội
ngũ
cán
bộ
trong
các
cơ
quan
pháp
luật
khi
thực
hiện
nhiệm
vụ;
chưa
có
sự
thống
nhất
trong
việc
cấp
GCNCHXTGTT
của
án
treo
đối
với
trường
hợp
bị
án
bỏ
trốn
hoặc
vi
phạm
nghĩa
vụ
chấp
hành
án
nhưng
TGTT
của
án
treo
đã
hết.
III-
Một
số
quan
điểm
về
việc
thi
hành
án
treo:
Quá
trình
nghiên
cứu,
chúng
tôi
thấy
vấn
đề
này
có
hai
quan
điểm,
đó
là:
1-
Quan
điểm
thứ
nhất:
Án
treo
không
phải
là
hình
phạt
nhưng
xét
về
bản
chất
của
án
treo
cũng
chính
là
biện
pháp
nhằm
thực
hiện,
cụ
thể
hóa
trách
nhiệm
hình
sự
của
hình
phạt
tù
có
thời
hạn
đối
với
bị
án
vì
thế
tiêu
chí
“tự
giác
chấp
hành
án”
được
coi
là
“điều
kiện”
cốt
lõi
để
xác
định
mục
đích,
kết
quả
của
hình
phạt
tù
cho
hưởng
án
treo
có
được
thực
hiện
trên
thực
tế
hay
không.
Đồng
thời
phải
nghiêm
chỉnh
tuân
theo
nguyên
tắc
trong
THAHS
quy
định
tại
Điều
4
Luật
Thi
hành
án
hình
sự
năm
2010
(sau
đây
gọi
tắt
là
Luật
THAHS):
Nếu
bị
án
không
“tự
giác
chấp
hành
án”
thì
không
đủ
điều
kiện
tiếp
tục
được
hưởng
án
treo;
bị
án
chết
thì
phải
đình
chỉ
thi
hành
án;
bị
án
bỏ
trốn
thì
phải
truy
nã
thi
hành
án
hoặc
chống
đối,
vi
phạm
nghĩa
vụ
thi
hành
án
(Điều
64,
Điều
75
Luật
THAHS)
phải
bị
xử
lý
bằng
biện
pháp
hành
chính
hoặc
chuyển
án
treo
thành
án
tù
có
thời
hạn
như
đối
với
trường
hợp
phạm
tội
mới
trong
thời
gian
thử
thách.
Thời
gian
bị
án
bỏ
trốn
hoặc
vi
phạm
nghĩa
vụ
chấp
hành
án
không
được
tính
vào
thời
gian
được
coi
là
chấp
hành
án
và
không
được
xét
rút
ngắn
thời
gian
thử
thách
theo
quy
định,
có
như
vậy
mới
bảo
đảm
sự
nghiêm
minh
của
pháp
luật,
bảo
đảm
mục
đích
của
hình
phạt,
nguyên
tắc
trong
thi
hành
án
hình
sự
và
nguyên
tắc
pháp
chế
thống
nhất,
bảo
đảm
tính
dân
chủ,
công
bằng
theo
tinh
thần
của
Điều
16
Hiến
pháp
năm
2013
“Mọi
người
đều
bình
đẳng
trước
pháp
luật”.
Do
đó,
mặc
dù
thời
gian
thử
thách
của
án
treo
đối
với
bị
án
đã
hết
nhưng
tạm
thời
chưa
cấp
GCNCHXTGTT
cho
người
được
hưởng
án
treo,
có
như
vậy
mới
đáp
ứng
với
thực
tiễn
và
lý
luận
trong
đấu
tranh
phòng
chống
tội
phạm.
2-
Quan
điểm
thứ
hai:
Xuất
phát
từ
tính
nhân
đạo
của
pháp
luật
XHCN
về
án
treo
và
nguyên
tắc
có
lợi
cho
người
chấp
hành
án
quy
định
của
Hiến
pháp
năm
2013,
Điều
7
BLHS
năm
1999,
2015,
khoản
3
Điều
4
Luật
THAHS
thì
mặc
dù
bị
án
không
tự
giác
chấp
hành
TGTT
của
án
treo
theo
quy
định
nhưng
trong
thời
gian
đó
không
có
căn
cứ
chứng
minh
họ
phạm
tội
mới
hoặc
bị
chết,
xét
về
góc
độ
pháp
lý
để
đánh
giá
thì
hành
vi
không
tự
giác
chấp
hành
án
treo
đó
cũng
chỉ
thuộc
trường
hợp
ít
nghiêm
trọng,
hậu
quả
và
ảnh
hưởng
xảy
ra
không
lớn…
do
vậy
họ
vẫn
được
coi
là
đã
chấp
hành
xong
thời
gian
thử
thách
(tuy
nhiên
sẽ
không
được
xét
rút
ngắn
thời
gian
thử
thách)
và
vẫn
được
cấp
GCNCHXTGTT
theo
quy
định
tại
khoản
3
Điều
62
Luật
THAHS.
Tác
giả
bài
viết
cho
rằng:
Nhằm
hoàn
thiện
hệ
thống
pháp
luật
một
cách
minh
bạch,
công
bằng
và
đầy
đủ,
bảo
đảm
thực
hiện
các
nguyên
tắc
cơ
bản
của
Hiến
pháp
năm
2014
như:
Nguyên
tắc
Nhà
nước
bảo
đảm
và
phát
huy
quyền
làm
chủ
của
Nhân
dân;
công
nhận,
tôn
trọng,
bảo
vệ
và
bảo
đảm
quyền
con
người,
quyền
công
dân
(Điều
3,
Điều
14);
Nguyên
tắc
Mọi
người
đều
bình
đẳng
trước
pháp
luật
(Điều
16);
Nguyên
tắc
có
lợi,
nhân
đạo
(Điều
7
BLHS
năm
1999,
2015,
khoản
3
Điều
4
Luật
THAHS)
thì
các
quan
điểm
nêu
trên
đều
có
những
điểm
tích
cực
và
hạn
chế,
bởi
vì:
Quan
điểm
thứ
nhất
có
ưu
điểm
duy
trì
tính
nghiêm
minh
của
pháp
luật,
bảo
đảm
sự
bình
đẳng
trước
pháp
luật
nhưng
dẫn
đến
tình
trạng
công
tác
THA
treo
sẽ
bị
kéo
dài,
hồ
sơ
THAHS
không
thể
giải
quyết
dứt
điểm
được;
việc
cung
cấp
thông
tin
về
Lý
lịch
tư
pháp
của
người
chấp
hành
án
sau
khi
đã
hết
TGTT
của
án
treo
gặp
nhiều
khó
khăn
chưa
được
tháo
gỡ.
Quan
điểm
thứ
hai
có
ưu
điểm
thể
hiện
tính
nhân
đạo,
bảo
đảm
quyền
con
người
và
nguyên
tắc
có
lợi
cho
người
chấp
hành
án,
giải
quyết
dứt
điểm
công
tác
THA
treo
nhưng
lại
thiếu
tính
minh
bạch,
công
bằng
trước
pháp
luật
giữa
chủ
thể
thi
hành
án
phạt
tù
có
thời
hạn
với
chủ
thể
thi
hành
án
treo;
giữa
bị
án
tự
giác
chấp
hành
án
treo
với
những
bị
án
cố
ý
vi
phạm
nghĩa
vụ
chấp
hành
án.
Hiện
tại
do
Luật
và
các
văn
bản
dưới
luật
chưa
quy
định
cụ
thể
chế
tài
đối
với
bị
án
chấp
hành
án
treo
có
hành
vi
vi
phạm
nghĩa
vụ
chấp
hành
án
thì
cần
vận
dụng
nguyên
tắc
chủ
đạo
đó
là
“nguyên
tắc
có
lợi”
cho
người
phải
chấp
hành
án
treo
nhằm
đề
cao
các
giá
trị
về
quyền
con
người,
do
đó
họ
vẫn
được
coi
là
đã
chấp
hành
án
xong
thời
gian
thử
thách
của
án
treo
và
phải
được
cấp
GCNCHXTGTT
theo
khoản
3
Điều
62
Luật
THAHS….Tuy
nhiên
về
lâu
dài,
cũng
cần
phải
có
chế
tài
pháp
lý
cụ
thể,
minh
bạch
và
nghiêm
khắc
nhằm
bảo
đảm
tính
công
bằng,
bình
đẳng
trong
Nhà
nước
pháp
quyền;
bất
cứ
bị
án
nào
có
hành
vi
vi
phạm
nghĩa
vụ
chấp
hành
án
đều
phải
chịu
trách
nhiệm
pháp
lý
theo
đúng
quy
định
của
pháp
luật.
IV-
Một
số
giải
pháp:
Trên
cơ
sở
lý
luận
và
thực
tiễn,
tác
giả
bài
viết
đề
xuất
những
giải
pháp
cụ
thể
sau:
1-
Giải
pháp
bảo
đảm
việc
giao
nhận
được
QĐTHA
treo
cho
bị
án:
-
Khi
áp
dụng
cho
bị
cáo
được
hưởng
án
treo
theo
Điều
60
BLHS
năm
1999,
Điều
65
BLHS
năm
2015;
khoản
1
Điều
2
Nghị
quyết
số
01/2013/NQ-HĐTP
ngày
06/11/2013
của
Hội
đồng
thẩm
phán
TAND
tối
cao
thì
cần
quy
định
bổ
sung
thêm
các
căn
cứ
khác
được
coi
là
“điều
kiện
cho
hưởng
án
treo”
(không
phải
là
hình
phạt
bổ
sung)
như:
Cam
kết
tự
giác
chấp
hành
án;
có
bảo
lãnh
của
người
thân
thích
trong
gia
đình
hoặc
chính
quyền
địa
phương
nơi
cư
trú
hoặc
đơn
vị,
tổ
chức
nơi
làm
việc;
hoặc
phải
đặt
tiền
hoặc
tài
sản
có
giá
trị
để
đảm
bảo
tương
ứng
với
thời
gian
thử
thách
của
án
treo;
hoặc
quy
định
rõ:“
nếu
bị
cáo
không
tự
giác
chấp
hành
thời
gian
thử
thách
của
án
treo
hoặc
vi
phạm
các
quy
định
về
thi
hành
án
treo
sẽ
không
được
hưởng
án
treo”
nhằm
ràng
buộc
họ
phải
đến
nhận
và
tự
giác
thi
hành
QĐTHA
treo
một
cách
nghiêm
chỉnh
và
đúng
thời
gian
quy
định.
-
Đối
với
trường
hợp
bị
án
cố
tình
trốn
tránh
không
đến
nhận
QĐTHA
treo
thì
CQTHAHS
cấp
huyện
tiến
hành
“áp
giải
thi
hành
án”
như
đối
với
trường
hợp
thi
hành
án
phạt
tù
có
thời
hạn
quy
định
tại
khoản
4
Điều
22
Luật
THAHS.
2-
Giải
pháp
bảo
đảm
bị
án
chấp
hành
nghiêm
chỉnh
thời
gian
thử
thách
của
án
treo:
-
Nâng
cao
trách
nhiệm
của
chính
quyền
địa
phương
(UBND
cấp
xã)
trong
việc
quản
lý,
giám
sát,
giáo
dục
đối
với
người
chấp
hành
án
treo.
Tăng
cường
công
tác
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
trong
lĩnh
vực
thi
hành
hình
sự
(trong
đó
có
thi
hành
án
treo)
đối
với
người
vi
phạm
nghĩa
vụ
chấp
hành
án;
cần
bổ
sung
quy
định
của
UBND
cấp
xã,
cơ
quan
THAHS
cấp
huyện
về
quyền
và
trách
nhiệm
đề
nghị
Tòa
án
ra
quyết
định
“kéo
dài
thời
gian
thử
thách”
đối
với
bị
án
đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
mà
tiếp
tục
vi
phạm.
-
Áp
dụng
các
quy
định
về
“áp
giải
thi
hành
án”,
“truy
nã
thi
hành
án”,
“đình
chỉ
thi
hành
án”
đối
với
người
chấp
hành
án
treo
khi
họ
cố
ý
trốn
tránh
thi
hành
án
hoặc
đã
chết
trong
thời
gian
chấp
hành
án.
-
Đề
nghị
các
cấp
có
thẩm
quyền
sớm
sửa
đổi
luật
hoặc
hướng
dẫn
pháp
luật
về
hình
sự,
tố
tụng
hình
sự,
thi
hành
án
hình
sự
cho
phù
hợp
theo
hướng:
Quy
định
cụ
thể
chế
tài
xử
lý
như
“kéo
dài
thời
gian
thử
thách”
hoặc
“chuyển
từ
án
treo
thành
án
tù
có
thời
hạn”
buộc
người
chấp
hành
án
treo
có
vi
phạm
nghĩa
vụ
chấp
hành
án
phải
vào
Trại
giam
để
chấp
hành
án
nhằm
bảo
đảm
mục
đích
của
hình
phạt
quy
định
tại
Điều
27
BLHS
năm
2009;
Điều
31
BLHS
năm
2015;
bảo
đảm
hiệu
lực
của
bản
án,
quyết
định
thi
hành
án
của
Tòa
án;
đồng
thời
bảo
đảm
nguyên
tắc
trong
thi
hành
án
hình
sự
theo
Điều
4
Luật
THAHS
cho
phù
hợp
với
thực
tế
cuộc
sống,
bảo
đảm
quyền
con
người,
tính
dân
chủ,
công
bằng
và
nguyên
tắc
pháp
chế
thống
nhất.
Để
bảo
đảm
thời
gian
thử
thách
của
án
treo
được
thi
hành
trên
thực
tế
cần
dựa
vào
tính
chất
và
mức
độ
vi
phạm
nghĩa
vụ
chấp
hành
án
cụ
thể
để
xử
lý
như
sau:
Thứ
nhất:
Nếu
vi
phạm
lần
thứ
nhất
thì
người
giám
sát,
giáo
dục
nhắc
nhở
và
ghi
trong
bản
nhận
xét
đánh
giá;
nếu
vi
phạm
lần
thứ
hai
thì
phải
tiến
hành
kiểm
điểm,
giáo
dục
tại
cộng
đồng
nơi
cư
trú.
Thứ
hai:
Nếu
vi
phạm
lần
thứ
ba
thì
phải
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính.
Thứ
ba:
Nếu
đã
bị
xử
phạt
vi
phạm
hành
chính
mà
còn
tiếp
tục
vi
phạm
lần
thứ
tư
thì
UBND
cấp
xã,
cơ
quan
THAHS
cấp
huyện
có
quyền
và
trách
nhiệm
đề
nghị
Tòa
án
ra
quyết
định
“kéo
dài
thời
gian
thử
thách”
đối
với
bị
án.
Thứ
tư:
Nếu
đã
bị
kéo
dài
thời
gian
thử
thách
mà
còn
tiếp
tục
vi
phạm
lần
thứ
năm
thì
UBND
cấp
xã,
cơ
quan
THAHS
cấp
huyện
đề
nghị
Tòa
án
ra
quyết
định
THA
chuyển
từ
án
treo
thành
án
tù
có
thời
hạn,
tương
tự
như
trường
hợp
phạm
tội
mới
trong
thời
gian
thử
thách.
-
Đối
với
cơ
quan
quản
lý
thi
hành
án,
chính
quyền
địa
phương
theo
dõi,
giám
sát
giáo
dục
người
chấp
hành
án
treo
cần
chủ
động
xem
xét
những
bị
án
đã
tự
giác
chấp
hành
tốt,
có
đủ
điều
kiện
thì
lập
hồ
sơ,
có
văn
bản
đề
nghị
xem
xét
rút
ngắn
thời
gian
thử
thách
án
treo
cho
bị
án
theo
khoản
4
Điều
60
BLHS
năm
1999;
khoản
4
Điều
65
BLHS
năm
2015;
Điều
66
Luật
THAHS,
qua
đó
nâng
cao
nhận
thức
pháp
luật
của
bị
án
về
án
treo,
đồng
thời
khuyến
khích
họ
tự
giác
chấp
hành
án.
Trong
giới
hạn
của
bài
viết,
tác
giả
rất
mong
nhận
được
sự
quan
tâm
góp
ý
của
bạn
đọc
để
góp
phần
phong
phú
thêm
những
vấn
đề
về
lý
luận
và
kinh
nghiệm
thực
tiễn
áp
dụng
pháp
luật
của
Viện
kiểm
sát
nhân
dân
trong
công
tác
kiểm
sát
thi
hành
án
hình
sự.
Lưu
Tiến
Độ