Việc
thi
hành
án
dân
sự
là
một
khâu
quan
trọng
trong
hoạt
động
tư
pháp,
nhằm
đảm
bảo
các
bản
án
được
thi
hành
đầy
đủ,
đảm
bảo
việc
thu
nộp
cho
ngân
sách
Nhà
nước
đối
với
các
khoản
tiền
phạt,
tiền
truy
thu
trong
các
vụ
án
hình
sự.
Tuy
nhiên,
công
tác
kiểm
sát
thi
hành
án
dân
sự
thấy
hiện
công
tác
này
còn
gặp
phải
nhiều
khó
khăn,
trong
đó
có
vấn
đề
về
tính
lãi
suất
thi
hành
án
đối
với
một
số
trường
hợp
đã
được
Toà
án
nhân
dân
xét
giảm
nghĩa
vụ
thi
hành
án.
Bài
viết
này
sẽ
phân
tích
sâu
hơn
về
tác
động
của
việc
tính
lãi
suất
đối
với
quá
trình
thi
hành
án
dân
sự
và
những
khó
khăn,
vướng
mắc
cần
được
xem
xét
trên
nhiều
khía
cạnh
để
cân
nhắc
đưa
ra
giải
pháp
hiệu
quả
nhằm
nâng
cao
chất
lượng
công
tác
thi
hành
án
dân
sự.
Tác
động
của
việc
tính
lãi
suất
thi
hành
án
làm
tăng
thêm
khoản
tiền
phải
thu
nộp
cho
ngân
sách
Nhà
nước
nhưng
về
bản
chất
thì
ngân
sách
Nhà
nước
không
thu
được
gì
qua
việc
tính
lãi
xuất
chậm
trả
từ
người
phải
thi
hành
án.
Trường
hợp,
người
phải
thi
hành
án
dân
sự
đối
với
các
khoản
thu
nộp
cho
ngân
sách
Nhà
nước
có
điều
kiện
thi
hành
nhưng
không
tự
nguyện
thi
hành
án
thì
việc
tính
lãi
xuất
đối
với
việc
chậm
trả
là
cần
thiết,
đúng
quy
định
của
pháp
luật;
tuy
nhiên
việc
tính
thêm
lãi
suất
đối
với
khoản
tiền
phạt,
tiền
truy
thu,
án
phí
đối
với
người
đã
được
giảm
nghĩa
vụ
thi
hành
án
từ
lần
thứ
nhất
trở
đi
khiến
cho
khoản
tiền
phải
thu
nộp
cho
ngân
sách
Nhà
nước
tăng
lên,
nhưng
việc
tính
lãi
xuất
đối
với
các
khoản
chậm
trả
này
không
để
nhằm
thu
cho
ngân
sách
Nhà
nước
mà
suy
cho
cùng
chỉ
là
việc
tính
lãi
xuất
để
sau
đó
lại
xét
giảm
nghĩa
vụ
thi
hành
án
dân
sự
đến
khi
được
miễn
toàn
bộ
số
tiền
phải
thi
hành
còn
lại,
trong
đó
có
một
phần
là
lãi
xuất
chậm
trả.
Theo
quy
định
tại
Điều
61
Luật
thi
hành
án
dân
sự
quy
định
về
điều
kiện
miễn,
giảm
nghĩa
vụ
thi
hành
án
đối
với
khoản
thu
nộp
ngân
sách
nhà
nước
được
quy
định
như
sau:
“1.
Người
phải
thi
hành
án
được
xét
miễn
nghĩa
vụ
thi
hành
án
khi
có
đủ
các
điều
kiện
sau
đây:
a)
Không
có
tài
sản
hoặc
có
tài
sản
nhưng
tài
sản
đó
theo
quy
định
của
pháp
luật
không
được
xử
lý
để
thi
hành
án
hoặc
không
có
thu
nhập
hoặc
có
thu
nhập
chỉ
bảo
đảm
cuộc
sống
tối
thiểu
cho
người
phải
thi
hành
án
và
người
mà
họ
có
trách
nhiệm
nuôi
dưỡng;
b)
Hết
thời
hạn
05
năm,
kể
từ
ngày
ra
quyết
định
thi
hành
án
đối
với
khoản
thu
nộp
ngân
sách
nhà
nước
có
giá
trị
dưới
2.000.000
đồng
hoặc
hết
thời
hạn
10
năm,
kể
từ
ngày
ra
quyết
định
thi
hành
án
đối
với
khoản
thu
nộp
ngân
sách
nhà
nước
có
giá
trị
từ
2.000.000
đồng
đến
dưới
5.000.000
đồng.
2.
Người
phải
thi
hành
án
đã
thi
hành
được
một
phần
khoản
thu
nộp
ngân
sách
nhà
nước
được
xét
miễn
thi
hành
phần
nghĩa
vụ
còn
lại
khi
có
đủ
các
điều
kiện
sau
đây:
a)
Thuộc
trường
hợp
quy
định
tại
điểm
a
khoản
1
Điều
này;
b)
Hết
thời
hạn
05
năm,
kể
từ
ngày
ra
quyết
định
thi
hành
án
mà
phần
nghĩa
vụ
còn
lại
có
giá
trị
dưới
5.000.000
đồng
hoặc
hết
thời
hạn
10
năm,
kể
từ
ngày
ra
quyết
định
thi
hành
án
mà
phần
nghĩa
vụ
còn
lại
có
giá
trị
từ
5.000.000
đồng
đến
dưới
10.000.000
đồng.
3.
Người
phải
thi
hành
án
đã
thi
hành
được
một
phần
khoản
thu
nộp
ngân
sách
nhà
nước
mà
thuộc
trường
hợp
quy
định
tại
điểm
a
khoản
1
Điều
này
thì
được
xét
giảm
một
phần
nghĩa
vụ
thi
hành
án
khi
có
một
trong
các
điều
kiện
sau
đây:
a)
Hết
thời
hạn
05
năm,
kể
từ
ngày
ra
quyết
định
thi
hành
án
mà
phần
nghĩa
vụ
còn
lại
có
giá
trị
từ
10.000.000
đồng
đến
100.000.000
đồng,
mỗi
lần
giảm
không
quá
một
phần
tư
số
tiền
còn
lại
phải
thi
hành
án;
b)
Hết
thời
hạn
10
năm,
kể
từ
ngày
ra
quyết
định
thi
hành
án
mà
phần
nghĩa
vụ
còn
lại
có
giá
trị
từ
trên
100.000.000
đồng,
mỗi
lần
giảm
không
quá
một
phần
năm
số
tiền
còn
lại
phải
thi
hành
án
nhưng
tối
đa
không
quá
50.000.000
đồng.
4.
Người
phải
thi
hành
án
đã
tích
cực
thi
hành
được
một
phần
án
phí,
tiền
phạt
nhưng
lâm
vào
hoàn
cảnh
kinh
tế
đặc
biệt
khó
khăn
kéo
dài
do
thiên
tai,
hỏa
hoạn,
tai
nạn
hoặc
ốm
đau
gây
ra
mà
không
thể
tiếp
tục
thi
hành
được
phần
nghĩa
vụ
còn
lại
hoặc
lập
công
lớn
thì
được
xét
miễn
thi
hành
phần
nghĩa
vụ
còn
lại.
5.
Người
phải
thi
hành
án
quy
định
tại
các
khoản
1,
2
và
3
Điều
này
chỉ
được
xét
miễn
hoặc
giảm
một
lần
trong
01
năm
đối
với
mỗi
bản
án,
quyết
định.
Quyết
định
thi
hành
án
lần
đầu
là
căn
cứ
để
xác
định
thời
hạn
xét
miễn,
giảm
nghĩa
vụ
thi
hành
án”.
Như
vậy,
một
người
bị
kết
án
về
hình
sự
đồng
thời
trong
bản
án
tuyên
phải
thi
hành
khoản
án
phí,
truy
thu,
tiền
phạt…
nộp
ngân
sách
Nhà
nước
mà
có
đủ
các
điều
kiện
theo
quy
định
tại
Điều
61
Luật
thi
hành
án
dân
sự
thì
sẽ
được
giảm,
được
miễn
nghĩa
vụ
thi
hành
án
dân
sự
khi
có
đủ
các
điều
kiện
quy
định
tại
Điều
61
Luật
thi
hành
án
dân
sự
cho
đến
hết
số
tiền
phải
thi
hành.
Nếu
thực
hiện
theo
quy
định
hiện
hành
sẽ
ngày
càng
làm
tăng
khoản
tiền
lãi
xuất
chậm
trả,
Cơ
quan
thi
hành
án
dân
sự
phải
tính
thêm
số
tiền
chưa
thi
hành
cao
hơn,
kéo
dài
thêm
thời
hạn
xoá
án
tích
đối
với
người
bị
kết
án,
các
cơ
quan
thi
hành
pháp
luật
phải
chi
phí
thêm
thời
gian
để
xem
xét
việc
giảm,
miễn
nghĩa
vụ
thi
hành
án
…
nhưng
cuối
cùng
ngân
sách
Nhà
nước
không
thu
được
gì,
xin
đưa
ra
ví
dụ
cụ
thể
như
sau:
Tại
bản
án
hình
sự
sơ
thẩm
số
122/HSST
ngày
26/8/1999
của
Toà
án
nhân
dân
tỉnh
T
tuyên
phạt
đối
với
Bùi
Thị
L
sinh
năm
1968,
địa
chỉ
xã
KN,
huyện
SD,
tỉnh
TQ,
13
năm
tù
về
tội
Mua
bán
trái
phép
chất
ma
tuý
theo
điểm
b,
khoản
2,
Điều
185đ
Bộ
luật
hình
sự;
phạt
tiền
25.000.000đ,
truy
thu
sung
quỹ
Nhà
nước
7.280.000đ
(tổng
cộng
là
32.280.000đ).
Bị
cáo
phải
chịu
lãi
xuất
chậm
trả
với
khoản
tiền
phạt
chậm
thi
hành
quy
định
tại
Thông
tư
liên
ngành
số
01
ngày
19/6/1997.
Bùi
Thị
L
đã
thi
hành
500.000đ
tiền
truy
thu;
1.000.000đ
tiền
phạt
(tổng
cộng
là
1.500.000đ);
Từ
năm
2016
đến
nay,
Bùi
Thị
L
đã
7
lần
được
giảm
nghĩa
vụ
thi
hành
án
dân
sự
với
tổng
số
tiền
61.463.782đ.
Hiện
Bùi
Thị
L
còn
tiếp
tục
phải
thi
hành
11.867.195đ.
Hiện
tại
L
thuộc
trường
hợp
không
có
tài
sản
để
thi
hành.
Từ
dẫn
chứng
cụ
thể
nêu
trên,
đề
nghị
các
cơ
quan
tư
pháp
Trung
ương
cần
sớm
ban
hành
hướng
dẫn
thống
nhất
cách
tính
lãi
xuất
chậm
trả
đối
với
các
trường
hợp
đủ
điều
kiện
để
xem
xét
giảm,
miễn
nghĩa
vụ
thi
hành
án
dân
sự
theo
hướng
sau:
-
Phương
án
1:
Tính
đến
ngày
người
phải
thi
hành
các
khoản
nộp
ngân
sách
Nhà
nước,
nếu
có
đủ
các
điều
kiện
được
giảm
nghĩa
vụ
thi
hành
án
dân
sự
lần
đầu
thì
chỉ
tính
lãi
xuất
chậm
trả
theo
quy
định
từ
khi
bản
án
có
hiệu
lực
pháp
luật
đến
khi
được
xem
xét
quyết
định
giảm
nghĩa
vụ
lần
đầu,
không
tính
lãi
tiếp
đến
khi
được
miễn
toàn
bộ
phần
nghĩa
vụ
còn
lại;
-
Phương
án
2:
Tính
đến
ngày
người
phải
thi
hành
các
khoản
nộp
ngân
sách
Nhà
nước
nếu
có
đủ
điều
kiện
được
giảm
nghĩa
vụ
thi
hành
án
dân
sự
lần
đầu
thì
chỉ
tính
phần
gốc
theo
bản
án
(không
tính
lãi
xuất).
Quan
điểm
của
người
viết
đồng
tình
với
phương
án
số
2
vì
việc
không
tính
lãi
xuất
sẽ
rút
ngắn
thời
gian
được
miễn
toàn
bộ
nghĩa
vụ
dân
sự;
góp
phần
nâng
cao
hiệu
quả
của
quá
trình
thi
hành
án
đối
với
Cơ
quan
thi
hành
án
dân
sự;
giảm
thời
gian
xoá
án
tích
đối
với
người
bị
kết
án.
Người
viết:
Tạ
Văn
Thiển-
Phòng
8
Viện
KSND
tỉnh