Việc
xử
lý
vật
chứng,
tài
sản
trực
tiếp
liên
quan
đến
tội
phạm
trong
quá
trình
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm
và
giải
quyết
vụ
án
hình
sự
được
quy
định
tại
Điều
47
Bộ
luật
Hình
sự
(BLHS)
và
Điều
106
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
năm
2015
(BLTTHS)
và
một
số
văn
bản
hướng
dẫn
có
liên
quan.
Theo
quy
định,
việc
xử
lý
vật
chứng
do
Cơ
quan
điều
tra,
Cơ
quan
được
giao
nhiệm
vụ
tiến
hành
một
số
hoạt
động
điều
tra
quyết
định
nếu
vụ
án
được
đình
chỉ
ở
giai
đoạn
điều
tra;
do
Viện
kiểm
sát
quyết
định
nếu
vụ
án
được
đình
chỉ
ở
giai
đoạn
truy
tố;
do
Chánh
án
Tòa
án
quyết
định
nếu
vụ
án
được
đình
chỉ
ở
giai
đoạn
chuẩn
bị
xét
xử;
do
Hội
đồng
xét
xử
quyết
định
nếu
vụ
án
đã
đưa
ra
xét
xử.
Tuy
nhiên,
tác
giả
nhận
thấy
có
một
số
vướng
mắc
trong
việc
xử
lý
vật
chứng
trong
quá
trình
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm
và
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
các
vụ
án
hình
sự
như
sau:
Thứ
nhất,
quy
định
về
việc
xử
lý
vật
chứng
trong
giai
đoạn
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm
và
biểu
mẫu
chưa
cụ
thể.
Theo
quy
định
tại
Điều
89
BLTTHS,
“Vật
chứng
là
vật
được
dùng
làm
công
cụ,
phương
tiện
phạm
tội,
vật
mang
dấu
vết
tội
phạm,
vật
là
đối
tượng
của
tội
phạm,
tiền
hoặc
vật
khác
có
giá
trị
chứng
minh
tội
phạm
và
người
phạm
tội
hoặc
có
ý
nghĩa
trong
việc
giải
quyết
vụ
án”.
Vì
vậy,
vật
chứng
đã
phải
được
cơ
quan
điều
tra,
Cơ
quan
được
giao
tiến
hành
một
số
hoạt
động
điều
tra
thu
thập
từ
ngay
giai
đoạn
xác
minh,
giải
quyết
nguồn
tin.
Kết
thúc
việc
giải
quyết
nguồn
tin,
cơ
quan
điều
tra
phải
ra
quyết
định
khởi
tố
vụ
án
để
chuyển
sang
giai
đoạn
điều
tra
hoặc
ra
quyết
định
không
khởi
tố
vụ
án
(trừ
những
nguồn
tin
phải
tạm
đình
chỉ
theo
quy
định
tại
Điều
148
BLTTHS).
Trong
trường
hợp
không
khởi
tố
vụ
án,
cơ
quan
điều
tra
phải
giải
quyết
những
vật
chứng
đã
thu
giữ.
Trong
hệ
thống
biểu
mẫu
về
điều
tra
hình
sự
ban
hành
theo
Thông
tư
số
119/2021/TT-BCA
ngày
0/12/2021
của
Bộ
Công
an,
thì
biểu
mẫu
về
điều
tra
bao
gồm
từ
giai
đoạn
tiếp
nhận
nguồn
tin
đến
kết
thúc
điều
tra
vụ
án.
Tại
biểu
mẫu
sử
dụng
trong
việc
tiến
hành
các
biện
pháp
điều
tra
(Mục
4)
có
biểu
mẫu
“Quyết
định
xử
lý
tài
sản,
đồ
vật,
tài
liệu”
(Biểu
mẫu
số
149)
và
biểu
mẫu
“Quyết
định
xử
lý
vật
chứng”
(Biểu
mẫu
số
158).
Trong
căn
cứ
pháp
lý
của
hai
biểu
mẫu
trên,
đều
áp
dụng
điều
106
BLTTHS.
Thực
tiễn
hiện
nay,
cơ
quan
điều
tra
cũng
áp
dụng
các
biểu
mẫu
trên
để
xử
lý
vật
chứng
trong
giai
đoạn
giải
quyết
nguồn
tin
(trong
trường
hợp
không
khởi
tố
vụ
án
hoặc
xử
lý
vật
chứng
mau
hỏng,
khó
bảo
quản
hoặc
vật
chứng
là
động
vật
hoang
dã,
thực
vật
ngoại
lai…).
Tuy
nhiên,
tại
biểu
mẫu
số
158,
còn
căn
cứ
quyết
định
khởi
tố
vụ
án
(số,
ngày,
tháng,
năm)
để
xử
lý
vật
chứng,
tức
là
nếu
theo
quy
định
thì
biểu
mẫu
số
158
chỉ
áp
dụng
cho
giai
đoạn
điều
tra
(từ
khi
khởi
tố
vụ
án)
còn
biểu
mẫu
số
149
áp
dụng
khi
xử
lý
tài
sản,
đồ
vật,
tài
liệu
(không
phải
là
xử
lý
vật
chứng),
vì
vậy,
biểu
mẫu
xử
lý
vật
chứng
trong
giai
đoạn
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm
chưa
được
quy
định
cụ
thể.
Điều
106
BLTTHS
quy
định
“Việc
xử
lý
vật
chứng
do
Cơ
quan
điều
tra,
cơ
quan
được
giao
nhiệm
vụ
tiến
hành
một
số
hoạt
động
điều
tra
quyết
định
nếu
vụ
án
được
đình
chỉ
ở
giai
đoạn
điều
tra…”.
Như
vậy,
việc
xử
lý
vật
chứng
tại
giai
đoạn
giải
quyết
nguồn
tin
không
được
BLTTHS
quy
định
cụ
thể.
Thứ
hai,
trong
việc
xử
lý
vật
chứng
là
công
cụ,
phương
tiện
dùng
vào
việc
phạm
tội.
Theo
quy
định
tại
điểm
a
khoản
1
Điều
47
BLHS
và
điểm
a
khoản
2
Điều
106
BLTTHS
quy
định:
“Công
cụ,
phương
tiện
dùng
vào
việc
phạm
tội”
mới
tịch
thu
nộp
ngân
sách
Nhà
nước
hoặc
tiêu
hủy,
nếu
không
thì
phải
xem
xét
trả
lại
cho
bị
cáo,
chủ
sở
hữu
hợp
pháp.
Tuy
nhiên, việc
xác
định
vật
chứng
như
thế
nào
là
công
cụ,
phương
tiện
dùng
vào
việc
phạm
tội
còn
nhiều
cách
hiểu
và
vận
dụng
khác
nhau.
Ví
dụ:
Trong
vụ
án
Mua
bán
trái
phép
chất
ma
túy,
bị
cáo
sử
dụng
điện
thoại
để
liên
lạc
với
người
có
nhu
cầu
mua
ma
túy,
sau
đó
nhắn
tin
trao
đổi
về
phương
thức,
thủ
đoạn
giao
ma
túy.
Có
quan
điểm
cho
rằng
điện
thoại
trong
trường
hợp
này
là
công
cụ,
phương
tiện
để
bị
cáo
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
nên
cần
phải
tịch
thu.
Tuy
nhiên
có
quan
điểm
khác
cho
rằng:
Bị
cáo
sử
dụng
điện
thoại
trên
chủ
yếu
liên
lạc
trao
đổi
với
gia
đình,
bạn
bè,
chỉ
duy
nhất
01
lần
nhắn
tin,
trao
đổi
về
việc
mua
bán
ma
túy
nên
không
thể
xác
định
đây
là
công
cụ,
phương
tiện
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
nên
không
tịch
thu
cần
trả
lại
cho
bị
cáo.
Thứ
ba, theo
quy
định
tại
điểm
c
khoản
2
Điều
106
BLTTHS
năm
2015
thì
vật
chứng
không
có
giá
trị
hoặc
không
sử
dụng
được
thì
bị
tịch
thu
và
tiêu
hủy.
Hiện
nay,
chưa
có
quy
định
hoặc
có
văn
bản
hướng
dẫn
như
thế
nào
là
“vật
chứng
không
có
giá
trị
hoặc
không
sử
dụng
được”
nên
việc
xử
lý
vật
chứng
còn
tùy
tiện,
chưa
phù
hợp
với
quy
định
của
pháp
luật.
Thứ
tư,
chưa
có
quy
định
pháp
luật
hoặc
văn
bản
hướng
dẫn
xác
định
“vật
cấm
lưu
hành”.
Thực
tiễn
công
tác
thực
hành
quyền
công
tố
và
kiểm
sát
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm,
vụ
án
hình
sự,
nhận
thấy
một
số
vụ
án
có
quan
điểm
khác
nhau
về
việc
nhận
diện,
phân
loại
vật
chứng,
tài
sản
có
phải
vật
cấm
lưu
hành
hay
không.
Cụ
thể
như:
Trong
vụ
án
vi
phạm
quy
định
về
tham
gia
giao
thông
đường
bộ,
bị
cáo
điều
khiển
xe
Công
nông
tự
chế
(xe
thuộc
sở
hữu
của
anh
trai
bị
cáo)
vi
phạm
quy
định
về
giao
thông
đường
bộ,
gây
ra
tai
nạn
làm
chết
người.
Chiếc
xe
do
bị
cáo
điều
khiển
không
có
giấy
đăng
ký
xe,
không
được
cơ
quan
có
thẩm
quyền
quản
lý,
cấp
cấp
phép
lưu
hành.
Có
quan
điểm
cho
rằng,
chiếc
xe
Công
nông
tự
chế
trên
thuộc
loại
“vật
cấm
lưu
hành”
bởi
vì
theo
điểm
a,
mục
2,
Nghị
Quyết
32/2007/NQ-CP
ngày
29/6/2007
của
Chính
phủ
về
một
số
giải
pháp
cấp
bách
nhằm
kiềm
chế
tai
nạn
giao
thông
và
ùn
tắc
giao
thông
quy
định:
“Đình
chỉ
lưu
hành…
xe
công
nông,
xe
tự
chế
03,
04
bánh.
Trường
hợp
cố
tình
vi
phạm
sẽ
bị
tịch
thu
xử
lý
bán
phế
liệu,
sung
vào
công
quỹ”
và
theo
quy
định
tại
điểm
a
khoản
2
Điều
106
BLTTHS
quy
định:
“Vật
chứng
là
công
cụ,
phương
tiện
phạm
tội,
vật
cấm
tàng
trữ,
lưu
hành
thì
bị
tịch
thu,
nộp
ngân
sách
nhà
nước
hoặc
tiêu
hủy”,
vì
vậy,
cần
phải
tịch
thu
chiếc
xe
theo
quy
định.
Có
quan
điểm
cho
rằng,
chiếc
xe
này
không
phải
là
vật
cấm
lưu
hành
theo
điểm
a
khoản
2
Điều
106,
BLTTHS
quy
định
mà
đây
chỉ
là
loại
phương
tiện
chưa
đủ
điều
kiện
về
tham
gia
giao
thông,
tức
là
lỗi
hành
chính.
Mặt
khác,
chiếc
xe
trên
không
thuộc
sở
hữu
của
bị
cáo
trong
vụ
án.
Do
đó,
không
thể
tịch
thu
chiếc
xe
này
mà
trả
lại
cho
chủ
sở
hữu.
Vì
chưa
có
quy
định
pháp
luật
hoặc
văn
bản
hướng
dẫn
nên
việc
xử
lý,
giải
quyết
vật
chứng,
tài
sản
đối
với
những
vụ
án
như
trên
còn
tùy
nghi,
không
thống
nhất
giữa
các
địa
phương,
giữa
các
cơ
quan
tố
tụng.
Từ
những
khó
khăn,
vướng
mắc
nêu
trên,
cá
nhân
có
kiến
nghị
đề
xuất
một
số
nội
dung
sau:
-
Đề
nghị
các
cấp
có
thẩm
quyền
xem
xét,
đề
xuất
sửa
đổi
Bộ
luật
tố
tụng
hình
sự
theo
hướng
bổ
sung
quy
định
về
xử
lý
vật
chứng
tại
giai
đoạn
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm
cũng
như
ban
hành
biểu
mẫu
xử
lý
vật
chứng
ở
giai
đoạn
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm.
-
Đề
nghị
Liên
ngành
Trung
ương
xem
xét,
có
văn
bản
quy
định,
hướng
dẫn
trong
việc
xác
định
cụ
thể
vật
dùng
làm
công
cụ,
phương
tiện
phạm
tội;
vật
không
có
giá
trị
sử
dụng
hoặc
sử
dụng
không
được;
vật
cấm
lưu
hành
để
từ
đó
thống
nhất
trong
việc
áp
dụng
pháp
luật.
-
Đề
nghị
Cơ
quan
có
thẩm
quyền
hướng
dẫn,
giải
đáp
cụ
thể
về
việc
xử
lý
vật
chứng
trong
các
vụ
án
hình
sự,
nhằm
thống
nhất
trong
áp
dụng
pháp
luật,
đảm
bảo
quyền
và
nghĩa
vụ
cho
bị
can,
bị
cáo,
người
bị
hại,
người
có
quyền
lợi
nghĩa
vụ
liên
quan
và
những
người
tham
gia
tố
tụng
khác.
Trên
đây
là
ý
kiến
về
một
số
vướng
mắc
trong
việc
xử
lý
vật
chứng
trong
quá
trình
giải
quyết
nguồn
tin
về
tội
phạm
và
điều
tra,
truy
tố,
xét
xử
các
vụ
án
hình
sự.
Rất
mong
nhận
được
sự
tham
gia
ý
kiến
của
bạn
đọc.
Vũ
Phương
Hà
–
VKSND
tỉnh