Chế
định
án
treo
được
quy
định
tại
Điều
65
Bộ
luật
Hình
sự
(BLHS)
năm
2015
được
sửa
đổi,
bổ
sung
năm
2017
và
được
hướng
dẫn
áp
dụng
cụ
thể
tại
các
Nghị
quyết
số
02/2018/NQ-HĐTP
ngày
15/5/2018
và
Nghị
quyết
số
01/2022/NQ-HĐTP
ngày
15/4/2022
của
Hội
đồng
Thẩm
phán
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao.
Hiện
nay,
pháp
luật
hiện
hành
đã
quy
định,
hướng
dẫn
cụ
thể
02
trường
hợp,
một
là
khi
bản
án
có
hiệu
lực
pháp
luật,
người
được
hưởng
án
treo
tiếp
tục
phạm
tội
thì
Tòa
án
xét
xử
lần
sau
quyết
định
hình
phạt
đối
với
tội
mới,
sau
đó
tổng
hợp
hình
phạt
theo
khoản
2
Điều
56
BLHS.
Hai
là
trường
hợp
người
đang
được
hưởng
án
treo
mà
lại
phát
hiện
trước
khi
được
hưởng
án
treo
họ
đã
thực
hiện
một
tội
phạm
khác
thì
Tòa
án
quyết
định
hình
phạt
đối
với
tội
phạm
đó
và
không
tổng
hợp
hình
phạt
với
bản
án
cho
hưởng
án
treo
theo
quy
định
tại
khoản
2
Điều
7
Nghị
quyết
số
02/2018/NQ-HĐTP
ngày
15/5/2018
(gọi
tắt
là
Nghị
quyết
02)
của
Hội
đồng
Thẩm
phán
Tòa
án
nhân
dân
tối
cao.
Tuy
nhiên
trong
thực
tế
phát
sinh
những
trường
hợp
chưa
được
quy
định
và
hướng
dẫn,
gây
khó
khăn
trong
việc
nhận
thức
và
áp
dụng,
ví
dụ:
Ngày
15/6/2024,
Triệu
Đức
A
bị
Tòa
án
nhân
dân
huyện
B,
tỉnh
YB
xử
phạt
07
tháng
tù
nhưng
cho
hưởng
án
treo,
thời
gian
thử
thách
01
năm
02
tháng
kể
từ
ngày
tuyên
án
sơ
thẩm
về
tội
Trộm
cắp
tài
sản.
Ngày
22/6/2024,
Triệu
Đức
A
tiếp
tục
trộm
cắp
01
chiếc
xe
máy,
có
giá
trị
08
triệu
đồng.
Ngày
17/9/2024
bị
Tòa
án
nhân
dân
huyện
C,
tỉnh
TQ
xử
phạt
09
tháng
tù,
thời
hạn
tù
tính
từ
ngày
A
bị
bắt
tạm
giữ,
ngày
24/6/2024.
Vấn
đề
vướng
mắc
đặt
ra
trong
vụ
án
này
là
Tòa
án
nhân
dân
huyện
C,
tỉnh
TQ
có
được
tổng
hợp
bản
án
theo
quy
định
tại
Điều
56
BLHS
không?
do
còn
có
02
quan
điểm
khác
nhau,
cụ
thể:
-
Quan
điểm
thứ
nhất:
Án
treo
là
một
chế
định
đặc
biệt,
là
biện
pháp
miễn
chấp
hành
hình
phạt
tù
khi
có
đủ
điều
kiện
nên
Tòa
án
nhân
dân
huyện
C,
tỉnh
TQ
được
tổng
hợp
bản
án
của
Tòa
án
nhân
dân
huyện
B,
tỉnh
YB
vì:
+
Khoản
1
Điều
5
của
Nghị
quyết
số
02
quy
định:
“Trường
hợp
Tòa
án
cấp
sơ
thẩm
cho
hưởng
án
treo,
bản
án
không
bị
kháng
cáo,
kháng
nghị
theo
thủ
tục
phúc
thẩm
thì
thời
điểm
bắt
đầu
tính
thời
gian
thử
thách
là
ngày
tuyên
án
sơ
thẩm”
và
bản
án
của
Tòa
án
nhân
dân
huyện
B,
tỉnh
YB
đã
tuyên
“…,
thời
hạn
thử
thách
tính
từ
ngày
tuyên
án
sơ
thẩm”.
+
Khoản
5
Điều
65
BLHS
quy
định:
“...
Trường
hợp
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
mới
thì
Tòa
án
buộc
người
đó
phải
chấp
hành
hình
phạt
của
bản
án
trước
và
tổng
hợp
với
hình
phạt
của
bản
án
mới
theo
quy
định
tại
Điều
56
của
Bộ
luật
này”
và
khoản
1
Điều
7
Nghị
quyết
02
quy
định:
“Trường
hợp
người
được
hưởng
án
treo
phạm
tội
mới
trong
thời
gian
thử
thách
thì Tòa
án
quyết
định
hình
phạt
đối
với
tội
phạm
mới
và
tổng
hợp
với
hình
phạt
tù
của
bản
án
trước
theo
quy
định
tại Điều
55
và
Điều
56
của
Bộ
luật
Hình
sự;...”.
Như
vậy,
thời
gian
thử
thách
được
tính
từ
ngày
tuyên
án
và
đến
ngày
17/9/2024,
khi
Tòa
án
huyện
C
xét
xử,
bản
án
của
Tòa
án
huyện
B
đã
có
hiệu
lực
pháp
luật,
A
đã
vi
phạm
nghĩa
vụ
của
người
chấp
hành
án
nên
phải
tổng
hợp
hình
phạt,
chuyển
hình
phạt
cho
hưởng
án
treo
sang
hình
phạt
tù
theo
quy
định
tại
khoản
2
Điều
56
BLHS
“Khi
xét
xử
một
người
đang
phải
chấp
hành
một
bản
án
mà
lại
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
mới,
Tòa
án
quyết
định
hình
phạt
đối
với
tội
mới,
sau
đó
tổng
hợp
với
phần
hình
phạt
chưa
chấp
hành
của
bản
án
trước
rồi
quyết
định
hình
phạt
chung
theo
quy
định
tại
Điều
55
của
Bộ
luật
này”.
-
Quan
điểm
thứ
hai:
Tòa
án
nhân
dân
huyện
C,
tỉnh
TQ
không
được
tổng
hợp
bản
án
vì
các
lý
do:
+
Ngày
15/6/2024,
Triệu
Đức
A
bị
Tòa
án
nhân
dân
huyện
B,
tỉnh
YB
xử
phạt
07
tháng
tù
nhưng
cho
hưởng
án
treo,
sau
07
ngày
A
tiếp
tục
phạm
tội,
Bản
án
của
huyện
B
chưa
có
hiệu
lực
pháp
luật
theo
quy
định
tại
Điều
343
Bộ
luật
Tố
tụng
hình
sự
“Bản
án,
quyết
định
và
những
phần
của
bản
án,
quyết
định
sơ
thẩm
của
Tòa
án
không
bị
kháng
cáo,
kháng
nghị
thì
có
hiệu
lực
pháp
luật
kể
từ
ngày
hết
thời
hạn
kháng
cáo,
kháng
nghị”.
+
Điều
56
BLHS
quy
định
tổng
hợp
hình
phạt
của
nhiều
bản
án,
theo
đó
việc
tổng
hợp
hình
phạt
được
quy
định
trong
03
trường
hợp:
Thứ
nhất,
trường
hợp
một
người
đang
phải
chấp
hành
một
bản
án
mà
lại
bị
xét
xử
về
tội
đã
phạm
trước
khi
có
bản
án
này.
Thứ
hai,
một
người
đang
phải
chấp
hành
một
bản
án
mà
lại
thực
hiện
hành
vi
phạm
tội
mới.
Thứ
ba,
một
người
phải
chấp
hành
nhiều
bản
án
đã
có
hiệu
lực
pháp
luật
mà
các
hình
phạt
của
các
bản
án
chưa
được
tổng
hợp.
Như
vậy
việc
tổng
hợp
hình
phạt
theo
quy
định
tại
Điều
56
có
một
điều
kiện
bắt
buộc
chung
là
các
bản
án
đã
có
hiệu
lực
pháp
luật.
Trường
hợp
khi
xét
xử
mà
bản
án
trước
chưa
có
hiệu
lực
pháp
luật
thì
Chánh
án
Tòa
án
có
thẩm
quyền
sẽ
tiến
hành
tổng
hợp
khi
các
bản
án
đã
có
hiệu
lực
pháp
luật.
+
Tại
khoản
2
Điều
7
Nghị
quyết
02
quy
định:
“Trường
hợp
người
đang
được
hưởng
án
treo
mà
lại
phát
hiện
trước
khi
được
hưởng
án
treo
họ
đã
thực
hiện
một
tội
phạm
khác
thì
Tòa
án
quyết
định
hình
phạt
đối
với
tội
phạm
đó
và
không
tổng
hợp
hình
phạt
với
bản
án
cho
hưởng
án
treo.
Trong
trường
hợp
này,
người
phạm
tội
phải
đồng
thời
chấp
hành
02
bản
án
và
việc
thi
hành
án
do
các
cơ
quan
được
giao
trách
nhiệm
thi
hành
án
hình
sự
phối
hợp
thực
hiện
theo
quy
định
của
Luật
Thi
hành
án
hình
sự”.
Từ
những
quy
định
nêu
trên,
theo
nguyên
tắc
có
lợi
cho
bị
cáo,
khi
A
phạm
tội
lần
sau,
bản
án
của
Tòa
án
huyện
B
chưa
có
hiệu
lực
pháp
luật
nên
không
thể
tổng
hợp
02
bản
án
trên
được,
bị
cáo
phải
chấp
hành
đồng
thời
02
bản
án.
Hơn
nữa,
việc
tổng
hợp
sẽ
không
đúng
với
khoản
1
Điều
31
Hiến
pháp
2013
quy
định:
“Người
bị
buộc
tội
được
coi
là
không
có
tội
cho
đến
khi
được
chứng
minh
theo
trình
tự
luật
định
và
có
bản
án
kết
tội
của
Tòa
án
đã
có
hiệu
lực
pháp
luật”
và
Điều
13
Bộ
luật
TTHS
về
nguyên
tắc
suy
đoán
vô
tội.
Từ
thực
tế
nêu
trên,
đề
nghị
các
cơ
quan
chức
năng
có
thẩm
quyền
sớm
có
hướng
dẫn
cụ
thể
để
việc
thực
hiện,
áp
dụng
pháp
luật
bảo
đảm
đúng
quy
định
và
thống
nhất.
Trần
Việt
Cường Phòng
7
VKSND
tỉnh
Tuyên
Quang